Cống Quận Công Trần Đức Hòa : Người đỡ đầu các giáo sĩ tiên khởi ở Đàng Trong

Nói đến chữ quốc ngữ, hầu như ai cũng nghĩ đến công lao của giáo sĩ Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ). Ông là người thừa hưởng, hệ thống lại và phát triển thêm những gì mà các giáo sĩ đi trước đã khai mở. Có một chi tiết ít ai biết, đó là chính nhờ Cống Quận công Trần Đức Hòa là người bất chấp nguy hiểm để dung chứa các giáo sĩ tiên khởi này, mà ngày nay Việt Nam đã có một kiểu chữ viết hết sức độc đáo và thuận lợi…

Mộ Trần Đức Hoà

*MỘT VỊ QUAN TRẤNTỐT BỤNG

Vào thế kỷ thứ 16, đạo Kitô thâm nhập vào Nhật Bản bởi một số nhà truyền giáo Dòng Tên từ Ma Cao đến. Ngày 14.2.1614 (đầu thế kỷ 17), Nhật hoàng Daifusana ban lệnh cấm đạo và trục xuất các nhà truyền giáo. Trong số các giáo sĩ bị trục xuất từ Nhật Bản có 4 vị thừa sai được lệnh của của Nhà Dòng, thay vì trở về Ma Cao thì chuyển hướng xuống Hội An của xứ Đàng Trong (thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, các nhà truyền giáo Tây phương gọi Việt Nam bằng hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài - NV). Họ gồm hai linh mục người Bồ Đào Nha là Francesco Buzomi và Diego Carvalho, cùng hai trợ sĩ người Nhật là Jose và Paolo. Sau chuyến hải trình kéo dài gần một năm, ngày 18.1.1615, họ cập bến Hải Phố (Hội An). Lúc này ở Hội An, cộng đồng Nhật kiều theo Công giáo đã hình thành và các giáo sĩ này đã dùng tiếng Nhật để chăm sóc họ. Năm 1617, nhóm giáo sĩ ở Hội An được tăng cường thêm linh mục Francesco de Pina và một tu sĩ, tiếp đó lại có thêm các linh mục Cristofono Borri và Pedro Marquez - chứng tỏ, việc truyền giáo ở Hội An có những kết quả khả quan. Chẳng may ít lâu sau, Đàng Trong bị thiên tai hạn hán, dư luận cho rằng do trời đất trừng trị vì có người bỏ thờ cúng tổ tiên, ông bà mà theo đạo mới. Họ quy trách nhiệm cho các thừa sai và giáo dân. Đầu năm 1618, một lần nữa các giáo sĩ lại bị trục xuất. Linh mục Marquez và một tu sĩ được các giáo dân Nhật kiều giúp che chở, trốn tránh ở Hội An. Còn các linh mục Pina, Buzomi, Borri và hai thầy dòng khác thì được quan Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa, bấy giờ đang là Trấn thủ Quy Nhơn, ra tận Hội An đón về Pulucambi (trong các tài liệu của Giáo hội Công giáo, khi nói về công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong thì vẫn dùng địa danh Pulucambi để chỉ Quy Nhơn - NV). Linh mục Borri là người ghi chép khá đầy đủ: “Các cha Francesco Buzomi, Francesco de Pina và tôi rời Hải Phố đi Pulucambi (theo nhà nghiên cứu Ngô Nguyên Phi thì tiếng này có gốc Mã Lai, gồm Pulo là cù lao (đảo) và Cambi là tre xanh. Pulucambi là Đảo Xanh, chỉ Quy Nhơn) với quan trấn tỉnh này. Suốt hành trình, quan trấn đối với chúng tôi hết sức lịch sự và nhã nhặn… Ông cho chúng tôi ở cùng đoàn, dành riêng cho chúng tôi và người thông dịch một chiếc thuyền, hành lý chúng tôi để ở một thuyền khác, chứ không ngổn ngang bên chúng tôi. Suốt mười hai ngày, đi trong những điều kiện thoải mái như thế, sớm chiều ghé vào các cửa khẩu hoặc phố xá tỉnh Quảng Nghĩa, nơi mà quan trấn có quyền như ở tỉnh Pulucambi… Chúng tôi giãi bày mong muốn ở thị trấn để dễ truyền đạo hơn là ở trong dinh nằm giữa cánh đồng, xa thị trấn tới ba dặm. Vì thương mến, quan trấn không muốn xa chúng tôi, nhưng hy sinh quyền lợi cho dân chúng và gạt lòng yêu thích qua một bên. Quan truyền xây cho chúng tôi một ngôi nhà tiện nghi trong thị trấn Nuocman…” (trích trong Xứ Đàng Trong năm 1621 của giáo sĩ Cristophoro Borri, Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, NXB Tổng hợp TP.HCM 2014).

Mộ Trần Đức Hoà và hậu duệ thứ 13

“Nuocman” ở đây chính là Nước Mặn - một phố thị cảng sông nằm bên đầm Thị Nại của phủ Quy Nhơn (thế kỷ thứ 17-18). Nơi đây thuyền buôn phương Tây và các nước Đông Nam Á thường xuyên ra vào buôn bán. Cảng thị Nước Mặn xưa kia - nay là các thôn An Hòa, Lương Quang (xã Phước Quang) và thôn Kim Xuyên (xã Phước Hòa) thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Các vị thừa sai Dòng Tên sang truyền giáo ở Đàng Trong từ năm 1615, chủ yếu tập trung ở ba điểm: Cửa Hàn (Đà Nẵng), Hội An – Thanh Chiêm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Bình Định), nhưng ở Nước Mặn là trụ sở chính, có cha bề trên Buzomi. Cũng ở đây, linh mục Francesco de Pina mới có điều kiện học tiếng Việt để thành lập thí điểm truyền giáo tiên khởi. Sau đó, linh mục Pina và các linh mục Buzomi, Borri khởi sự nghiên cứu, phân tích và phiên âm tiếng Việt đều ở Nước Mặn. Vì vậy, có thể coi Nước Mặn là nơi phát tích cho buổi đầu phôi thai chữ quốc ngữ. Và nếu như không cho sự bao che của Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa (các giáo sĩ này phải bị trục xuất khỏi Việt Nam), thì liệu chữ quốc ngữ có đồng hành cùng dân tộc Việt suốt mấy trăm năm qua và tới tận mai sau ?

Một câu hỏi cũng cần được đưa ra là trong bối cảnh lịch sử với những luật lệ rất khắc nghiệt thời ấy, tại sao quan Khám lý Trần Đức Hòa lại dám bất chấp những hiểm họa mà ông và gia tộc có thể gặp phải khi trái mệnh trên để dung chứa các giáo sĩ Tây phương ?

Ông Trần Đức Nghị, hậu duệ thứ 13, bên bia lưu niệm ở Nước Mặn

Theo nhiều tài liệu thì Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) có một bà phi đã sinh ra hoàng tử Khê lúc Nguyễn Hoàng đã 64 tuổi, cho nên chúa rất sủng ái bà phi này. Đó là bà Minh Đức Vương Thái phi - sau này bà Minh Đức theo Kitô giáo và rất sùng đạo, chính linh mục Pina đã rửa tội cho bà. Đến các đời chúa kế tiếp, vị thế của bà càng được củng cố khi con bà là hoàng tử Khê chính là trụ cột của triều đình. Theo Đại Nam thực lục tiền biên vào năm 1626, Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) tuổi đã cao nên trao mọi chuyện trong nước cho Khê. Năm 1635, trước khi chết, Chúa Sãi trối trăn, cậy Khê giúp đỡ ấu chúa (Nguyễn Phúc Lan) điều hành việc nước. Khi Nguyễn Phúc Lan vừa lên ngôi thì có một người em (khác mẹ) là Nguyễn Phúc Anh đang làm trấn thủ Quảng Nam âm mưu làm phản. Phúc Lan lo sợ vời Khê vào muốn nhường ngôi lại cho ông (vai chú của Lan) nhưng Khê không nhận và quyết bắt Anh giết đi. Năm 1646, Khê mất. Sách trên chép rằng: “Khê là người họ thân của chúa, giúp việc chính trị trước sau 41 năm, trải qua ba triều. Đức lớn, công to, làm chỗ dựa quan trọng của đương thời. Khi mất thọ 58 tuổi. Chúa thương tiếc lắm, tặng Tá lý tôn thần Bình chương quân quốc đại sự Tường quận công, thụy là Trung Nghị. Năm Gia Long thứ năm cho tòng tự ở Thái miếu. Năm Minh Mạng thứ 12 phong Nghĩa Hưng quận vương.

Trong các ghi chép của mình, như Hành trình và truyền giáo, 1652 và nhất là trong Truyền giáo ở Đàng Trong, 1652 - giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã đề cập nhiều đến bà Minh Đức Vương Thái phi. Năm 1624, khi vừa đến xứ Đàng Trong, ông đã được theo giáo sĩ Francesco de Pina ra Huế thăm bà vương phi theo Kitô giáo này (do chính Pina rửa tội). Rồi A. de Rhodes ra Bắc Hà (1627-1630), trở về Ma Cao (1630-1640) và được phái trở lại Đàng Trong (1640-1645). Trong giai đoạn trở lại, ông đã có nhiều dịp đến thăm bà vương phi. Bà có một nhà nguyện riêng trong dinh thự của con bà là hoàng tử Khê. Đó là nơi các giáo sĩ cũng như thương gia ngoại quốc thường lui tới, các lễ nghi phụng tự cũng thường diễn ra tại đây. Cho tới một hôm chúa Nguyễn Phúc Lan tỏ ý không bằng lòng, cho người nhắn với Khê bảo cho mẹ mình biết là nếu thực lòng hành đạo thì hãy nên kín đáo hơn. Đặt chữ “Trung” lên trên chữ “Hiếu”, Khê đã triệt phá ngôi nhà nguyện của mẹ. Việc này khiến cho bà vương phi như điên như dại, bà bỏ nhà đi mấy ngày. Sau được A. de Rhodes khuyên nhủ, bà mới bằng lòng trở về nhà…

Cây đa gắn bia lưu niệm ở Nước Mặn

Việc quan Khám lý Trần Đức Hòa đón các giáo sĩ Dòng Tên từ Hội An vào Nước Mặn có liên quan đến bà Minh Đức Vương Thái phi sùng đạo như thế nào ? Hoặc giả bà vương phi này tin tưởng vào uy tín của Cống Quận công - người từng là dưỡng tử của chồng bà và là nghĩa đệ với chúa Sãi đương quyền để cậy nhờ ông che chở cho các giáo sĩ ? Hoặc là Cống Quận công can đảm, không sợ liên lụy đến chủ trương hạn chế truyền đạo của vương triều bằng nhãn quan khác thường: nhìn xa, trông rộng để tự tin vào việc làm của mình ? Câu trả lời này vẫn đang để ngỏ…

Nhưng… nói gì đi nữa thì cũng phải xác định rằng: nhân vật Trần Đức Hòa là người có công đầu (khi che chở các giáo sĩ), để từ đó Giáo hội Công giáo Việt Nam và chữ quốc ngữ được khởi đầu và dần dần định hình.

*CHUYẾN ĐIỀN DÃ VỀ NGUỒN CỦA THẾ HỆ HẬU BỐI

Một lần, nhân mấy ngày nghỉ lễ, anh Trần Đức Nghị (là hậu duệ đời thứ 13 của quan Khám lý phủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa) và vợ là chị Đào Thúy Hằng (con gái lớn của nhà văn Sơn Nam) đã từ TP. Mỹ Tho lái xe lên TP.HCM và chở người viết ra TP. Quy Nhơn. Tại đây, xe đón thêm anh Nguyễn Thanh Quang là cán bộ Bảo tàng Bình Định. Có “thổ địa”, chúng tôi an tâm “khám phá” những dấu tích người xưa… Trước tiên, là về vùng Nước Mặn - nơi cách đây 400 năm, chính xác là năm 1614 - “Quan trấn” Trần Đức Hòa đã cho phép các giáo sĩ Dòng Tên lập địa điểm truyền giáo đầu tiên tại xứ Đàng Trong. Và chính từ địa điểm này, chữ quốc ngữ đã được phôi thai và phát triển dần để trở thành loại chữ mà chúng ta đã và đang sử dụng… Trong tài liệu của các giáo sĩ ở thế kỷ thứ 17 thì Nước Mặn là một thị tứ sầm uất ở bên bờ đầm Thị Nại, nhưng bây giờ cái bờ đầm đã kéo ra xa ngút mắt. May mắn là ở thời điểm chúng tôi đến Nước Mặn thì cũng chứng kiến được một công trình bia lưu niệm của Giáo phận Quy Nhơn dựng lên trên nền nhà thờ cũ mà quan Trần Đức Hòa đã cho quan lính xây dựng cho các giáo sĩ Tây phương (nay thuộc thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước). Công trình là một cây đa lớn đắp bằng xi măng trổ sinh nhiều ngọn ngành, hoa trái. Dưới gốc, phía chính diện là tấm bia khắc dòng chữ: “ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ - Tại nơi đây Nước Mặn: Ba linh mục dòng Tên Francesco Buzomi (người Ý), Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha), Cristofono Borri (người Ý) và tu huynh Antônio Dias (người Bồ Đào Nha) đã đến lập cơ sở truyền giáo đầu tiên vào tháng 7 năm 1614, do lời mời của quan Trần Đức Hòa khám lý phủ Quy Nhơn…” (ngoài bản chữ quốc ngữ, còn có các bản khắc chữ Hán, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, La-tinh, Pháp, Anh có cùng nội dung gắn chung quanh).

Bia lưu niệm bản tiếng Anh và tiếng Việt

Trên đường về, chúng tôi còn đến đốt nhang trước linh vị của Lộc khê hầu Đào Duy Từ (con rể của Trần Đức Hòa) trong đền thờ ông tại xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, (Nghe nói trước đây xã này có tên là Ngọc Sơn, do Đào Duy Từ đặt để hoài vọng quê mình ở Thanh Hóa, nhưng không hiểu sao sau này lại đổi thành Hoài Thanh (Tây và Đông ?). Người trông coi hương hỏa ở đền thờ Đào Duy Từ là một hậu duệ: bác sĩ Đào Duy Nhơn, nhà ở sát ngay bên đền thờ. Ông hiện đã về hưu nhưng tình nguyện phục vụ tiếp ở bệnh viện 10 năm không hưởng lương. Trên con đường dẫn vào đền thờ Đào Duy Từ còn có một ngôi mộ bề thế, bia ghi rõ (nhưng rất mơ hồ) là “Lăng: Đại lang - Lê Phú Ông. Thế kỷ 16: Thủy tổ Lê tộc - Dưỡng tổ Đào tộc” (“đại lang” và “phú ông” chỉ là một cách gọi, không phải là tên riêng. Đúng ra là thế kỷ 17. “Thủy tổ Lê tộc” và “Dưỡng tổ Đào tộc” là…thậm xưng, chẳng lẽ Lê Hoàn, Lê Lợi là con cháu ông này? Đáng ra chỉ nên ghi “cha nuôi của Đào Duy Từ”.

Rời đền thờ Đào Duy Từ, chúng tôi đến thôn An Đỗ, huyện Hoài Nhơn - nơi có mộ của Cống Quận công Trần Đức Hòa. Về nhân vật lịch sử này, sử sách nhà Nguyễn không ghi lại năm sinh và năm mất, nhưng trong bản tường trình (một dạng hồi ký) Xứ Đàng Trong năm 1621 của giáo sĩ Cristofono Borri (Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch - NXB TP.Hồ Chí Minh 1998) gồm 18 chương, có dành hai chương (chương 9: Quan trấn tỉnh Quy Nhơn và chương 10 Quan trấn tỉnh Quy Nhơn qua đời), theo đó, Trần Đức Hòa đột ngột mắc bệnh và qua đời sau một chuyến đi săn voi. Lễ tang ông được tổ chức với: “Những nghi lễ một cách rất trịnh trọng, rất huy hoàng để người quá cố trở thành bất tử và để ghi nhớ, kính trọng và tôn thờ muôn đời… Có sắc lệnh (của chúa Nguyễn) trong đám ma không được tỏ ra đau khổ và buồn rầu như thói thường, mà phải mở hội vui linh đình để cho người ta hiểu ông xứng đáng được vinh dự lên ngang với thần thánh… Xác được đặt trong quan tài bằng bạc để trong nhà táng, đưa về nơi sinh quán gọi là Chifu (?), cách xa tư dinh chừng 3 ngày đường với đoàn tùy tùng rất đông (điều này chúng tôi đã kiểm tra và thấy từ Nước Mặn đến nơi có mộ ông khoảng 80 km, phù hợp với khả năng đi bộ vào thời đó - NV). Sau ba ngày liên tiếp cúng tế và làm các nghi lễ, họ châm lửa đốt các đồ mã gồm tư dinh, đền đài và tất cả các dụng cụ trừ linh cữu và thi hài người quá cố, sau đó đem chôn và được chuyển bí mật và giấu giếm tới mười hai lần, từ mộ này đến mộ kia. Họ làm thế để cho dân không biết rõ nơi chôn. Người ta tôn thờ vị thần mới này ở khắp các nơi. Ở nơi đâu cũng tưởng là có được hài cốt… Chúa (Nguyễn) truyền lấy 3 năm lợi tức trả cho quan trấn của tỉnh này để dùng vào sở phí và tiêu dùng trong dịp tang. Vì thế trong thời gian 3 năm, chúa không cắt đặt một quan trấn thủ nào khác, vì mọi người đều tin chắc hồn người quá cố được liệt vào hàng thần thánh, có thể tự mình cầm quyền cai trị trong 3 năm đó. Trong khi chờ đợi, chúa đặt người con của người quá cố làm Phó Trấn thủ và tướng lãnh của tỉnh…”- (Bản tường trình Xứ Đàng Trong năm 1621 của giáo sĩ C. Borri là một tư liệu rất có giá trị, được viết bằng tiếng Ý và in ở Roma năm 1631. Trong khoảng thời gian từ 1631 đến 1633 được dịch qua tiếng Pháp, La-tinh, Hà Lan, Đức, Anh… Sau 3 thế kỷ lại được dịch sang tiếng Pháp và in ở tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ Huế (1931), Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị có lẽ đã dịch từ bản này).

Gần 400 năm trước, nghi lễ an táng Quan Trấn Trần Đức Hòa được tổ chức một cách trang trọng -không dễ ai có được như thế, nhưng nay - khi chúng tôi đến mộ ông thì…chẳng có đường lên mộ. Trước đây mộ của ông nằm trên một ngọn đồi mà theo cựu trung tá Nguyễn Khắc Nhu (ông này là dân địa phương đi kháng chiến, về hưu làm nhà dưới chân đồi tình nguyện chăm sóc mộ ông Trần Đức Hòa) là ông “ngự” ngay trên lưng voi, còn cái đầu và vòi voi thì ở cách đó cả cây số. Sau này, chính quyền địa phương cho xẻ ở mé cạnh ngôi mộ một con đường để “cạp” đất ở phía sau ngọn đồi đem bán. Chỉ mới mấy mùa mưa, nước lũ đã khoét sâu con đường đất và làm sạt lở hai mép đường, ngôi mộ có nguy cơ bị xâm hại mà con cháu, người dân muốn đến viếng ông lại không có đường lên mộ. Thật buồn !

HÀ ĐÌNH NGUYÊN

Chia sẻ:

Bình luận

có thể bạn quan tâm

Đại hội giới trẻ hạt Trà Lồng - Cần Thơ
Đại hội giới trẻ hạt Trà Lồng - Cần Thơ
Với chủ đề “Nên thánh giữa đời”, khoảng 400 bạn trẻ đến từ 14 họ đạo trong giáo hạt Trà Lồng, giáo phận Cần Thơ đã tham dự Đại hội Giới trẻ Mùa Chay 2024 tại họ đạo Đường Láng ngày 24.3.2024
Ban Caritas giáo xứ Hà Đông thăm  trại phong Ba Sao
Ban Caritas giáo xứ Hà Đông thăm trại phong Ba Sao
Ngày 23.3.2024, Ban Caritas giáo xứ Hà Đông, TGP Hà Nội, đã thăm và chia sẻ bữa cơm trưa với bệnh nhân tại trại phong Ba Sao - Hà Nam.
 Nhóm thiện nguyện và giáo xứ Sơn La tặng 2 máy lọc nước
 Nhóm thiện nguyện và giáo xứ Sơn La tặng 2 máy lọc nước
Nhóm thiện nguyện Gia Kiệm đã phối hợp với giáo xứ Sơn La, giáo phận Hưng Hóa lắp đặt 2 máy lọc nước ở trụ sở UBND xã Long Hẹ và trường Tiểu học Co Mạ 1
Đại hội giới trẻ hạt Trà Lồng - Cần Thơ
Đại hội giới trẻ hạt Trà Lồng - Cần Thơ
Với chủ đề “Nên thánh giữa đời”, khoảng 400 bạn trẻ đến từ 14 họ đạo trong giáo hạt Trà Lồng, giáo phận Cần Thơ đã tham dự Đại hội Giới trẻ Mùa Chay 2024 tại họ đạo Đường Láng ngày 24.3.2024
Ban Caritas giáo xứ Hà Đông thăm  trại phong Ba Sao
Ban Caritas giáo xứ Hà Đông thăm trại phong Ba Sao
Ngày 23.3.2024, Ban Caritas giáo xứ Hà Đông, TGP Hà Nội, đã thăm và chia sẻ bữa cơm trưa với bệnh nhân tại trại phong Ba Sao - Hà Nam.
 Nhóm thiện nguyện và giáo xứ Sơn La tặng 2 máy lọc nước
 Nhóm thiện nguyện và giáo xứ Sơn La tặng 2 máy lọc nước
Nhóm thiện nguyện Gia Kiệm đã phối hợp với giáo xứ Sơn La, giáo phận Hưng Hóa lắp đặt 2 máy lọc nước ở trụ sở UBND xã Long Hẹ và trường Tiểu học Co Mạ 1
Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc mừng lễ bổn mạng
Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc mừng lễ bổn mạng
Mừng bổn mạng Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc, Đức Giám mục giáo phận Gioan Đỗ Văn Ngân đã cử hành thánh lễ kính thánh Giuse vào ngày 19.3.2024.
Nhớ cha Giuse Đặng Chí San
Nhớ cha Giuse Đặng Chí San
Ngày lễ kính Thánh Giuse, cha Quang, nguyên Bề trên dòng Thừa Sai Đức Tin, cũng là cháu cha Giuse Đặng Chí San, báo tin cho mình: “Cha San đang yếu dần”. Rồi tối ngày 23.3.2024, cha lại nhắn: “Cha cố Giuse đã về Nước Chúa lúc 17 giờ 30....
Xem lại các hành động đang khi hát kinh vinh danh trong thánh lễ Vọng Phục Sinh
Xem lại các hành động đang khi hát kinh vinh danh trong thánh lễ Vọng Phục Sinh
Sau bài đọc cuối cùng trích Cựu Ước cùng với đáp ca và lời nguyện thì đốt nến trên bàn thờ và linh mục xướng kinh “Vinh danh”. Mọi người cùng đọc hay hát tiếp. Trong lúc đó kéo chuông hoặc đánh chiêng trống, tùy theo thói quen địa phương...
Giáo dân La Dày cùng xem phim cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu
Giáo dân La Dày cùng xem phim cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu
Món quà tinh thần của vị linh mục chánh xứ trong Tuần Thánh 2024 là buổi chiếu phim để bà con hiểu hơn về Cuộc Thương Khó…
Giới trẻ trong tương quan với xã hội,  giáo hội
Giới trẻ trong tương quan với xã hội, giáo hội
Nhiều giáo phận đã tổ chức đại hội cho giới trẻ trong Mùa Chay 2024, qua đó mời họ tham gia các hoạt động của Giáo hội đồng thời khuyến khích đừng trở thành nô lệ của những đam mê không cần thiết, biết phân định và có trách nhiệm...
Lễ kính hai thánh Stêphanô Cuénot Thể và Gagelin Kính
Lễ kính hai thánh Stêphanô Cuénot Thể và Gagelin Kính
Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục giáo phận Qui Nhơn đã chủ tế thánh lễ đồng tế kính hai thánh Stêphanô Cuénot Thể và Gagelin Kính tại nhà thờ Chánh tòa Qui Nhơn ngày 14.3.2024