Thứ Bảy, 08 Tháng Chín, 2018 17:57

Kinh "Lạy Chiên Thiên Chúa" trong thánh lễ

 

NHẬP ÐỀ

Trong Thánh lễ hiện nay, ở phần nghi thức hiệp lễ, đang khi vị tư tế bẻ bánh thánh, bỏ một phần Mình Thánh vào chén thánh và đọc thầm rằng “Xin cho việc hòa Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con mà chúng con sắp lãnh nhận đem lại cho chúng con sự sống muôn đờithì ca đoàn hay ca viên sẽ hát đối đáp hay đọc lớn tiếng kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa”, và giáo dân đáp lại. Kinh này có thể được lặp đi lặp lại, bao lâu còn cần để kèm theo việc bẻ bánh. Lần cuối cùng được kết thúc bằng câu: “Xin ban bình an cho chúng con1.

 

LỊCH SỬ - Ý NGHĨA

Hiện nay, kinh Lạy Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei) được hát/ đọc trong nghi thức bẻ bánh. Thế nhưng ngay từ đầu, nghi thức bẻ bánh lại được cử hành trong thinh lặng. Sau đó, đến thời phụng vụ Chặng viếng, do nghi thức bẻ bánh thường kéo dài, cho nên để lấp đầy nghi thức này hầu giúp giáo dân khỏi bị chia trí cũng như hướng tâm hồn họ lên với Chúa, Đức Sergio I (687-701), theo sách Liber Pontificalis cho biết, mới truyền đọc kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian...”(Agnus Dei, qui tollis peccata mundi...) đang lúc các thầy giúp lễ bẻ bánh đã được truyền phép do thầy tổng phó tế phân phát cho. Là người Syria, sinh trưởng tại Palermo, có lẽ Đức Sergio I đã vay mượn bài ca này từ phụng vụ Syria rồi đưa vào nghi điển Roma2.

Lời ca của kinh Lạy Chiên Thiên Chúa được lấy từ 2 nguồn:

1] Nguồn thứ I: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian

Câu “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”(Agnus Dei, qui tollis peccata mundi) có nguồn Kinh Thánh từ câu nói của thánh Gioan tẩy giả khi lần đầu tiên giới thiệu cho người ta biết căn tính của Chúa Giêsu: Ngài là Đấng gánh tội trần gian (x. Ga 1,29.36). Điều này đã được ngôn sứ Isaia tiên báo về người Tôi tớ Đau khổ trong sách tiên tri Isaia, Đấng giải phóng dân Ngài bằng phương cách đau khổ và nhẫn nại của mình: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Điều này cũng đã được ngôn sứ Giêrêmia nhắc tới: “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu tính hại con” (Gr 11,19). Ngay từ thời Hội Thánh sơ khai, người ta đã hiểu được rằng người tôi tớ và con chiên trong sách tiên tri Isaia và Giêrêmia chính là hình ảnh Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc nhân loại3.

 

Quả thật, Ngài chính là Chiên Vượt Qua như tường thuật của thánh Gioan về những người lính đưa xác Chúa Giêsu từ trên thánh giá xuống, vì biết Ngài đã chết thật nên họ không đánh dập ống chân Ngài nữa, điều này thật ứng hợp với hình ảnh Chiên Vượt Qua trong sách Xuất hành (12,46) mà lệnh Chúa truyền rằng: “Các ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào của nó” (x. 1Cr 5,7; Ga 19,36)4. Chính trong đêm vượt qua, dân Do Thái ăn thịt chiên để có năng lựợng và sức mạnh mà lên đường thực hiện hành trình đi qua sa mạc tìm về Đất Hứa. Ngày nay cũng vậy, chúng ta sẽ rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể là Chiên Thiên Chúa để cuộc đời mình được Chúa dưỡng nuôi và tăng sức cho hành trình đi qua sa mạc trần thế này mà tiến về quê trời vĩnh phúc5.      

Ngoài ra, còn một số bản văn Kinh Thánh khác diễn tả Chúa Kitô là Chiên Thiên Chúa bị sát tế vì chúng ta, Ngài là Đấng xóa tội trần gian. Chẳng hạn, khi nói về lễ Vượt qua cũ, thánh sử Luca nhắc nhớ chúng ta về về sự nối kết giữa chiên bị sát tế và bánh không men (Lc 22,7); thánh Phaolô gọi Chúa Giêsu là “Chiên Vượt Qua của chúng ta”, “Đấng đã bị sát tế” (1Cr 5,7); thánh Phêrô nói đến công trình cứu chuộc con người “nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô”; sách Khải huyền gán cho Chúa Giêsu là Con Chiên bị đem đi làm thịt, là Con Chiên đã bị giết và máu Ngài tẩy sạch y phục của các thánh nhân, nhưng Ngài cũng là Đấng đã chiến thắng tử thần và Satan; Ngài là Đấng hằng sống, Đấng thống trị trời và đất, để rồi Ngài trở thành đối tượng của sự phụng thờ cho mọi người được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên (x. Kh 5,6tt; 7,14; 12,11; 13,8; 19,9)6.

 

2] Nguồn thứ II: Xin thương xót chúng con

Câu “Xin thương xót chúng con” (miserere nobis) tương tự như kinh Kyrie [nằm trong phần nghi thức thống hối của Thánh lễ] được cho là có nguồn gốc từ Thánh vịnh 51 cũng như từ Tân Ước ở các đoạn sau:

- Hai người mù kêu xin Chúa Giêsu thương xót: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt 9,27); “Lạy Ngài, lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Đám đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng kêu lớn hơn nữa: “Lạy Ngài, lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Mt 20,30-31);

- Người mù ăn xin tên là Batimê: “Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,46-48; Lc 18,38-39);

- Mười người phong cùi cũng đã làm như vậy: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13).

 

Ban đầu, bài Lạy Chiên Thiên Chúa được dân chúng và các giáo sĩ trợ lễ cùng hát. Bài này được lặp lại bao lâu nếu cần để đi kèm với việc bẻ bánh vốn kéo dài rất lâu vào thời đó cho đến khi hết bẻ bánh mới thôi. Với sự phát triển các giai điệu phức tạp, cũng giống như hát Halleluia, bài ca này dần dần chỉ dành riêng cho ca đoàn. Khi số người rước lễ sút giảm, và hơn nữa, khi bánh không men và kích thước nhỏ thay cho bánh có men (thế kỷ IX-X), hành động bẻ bánh được rút vắn lại và không còn mang tầm quan trọng nữa nếu không muốn nói là xem ra dư thừa. Kết quả là khoảng năm 1000, người ta quy định chỉ cần hát bản văn Agnus Dei 3 lần. Ban đầu, ca từ không thay đổi trong mỗi lần khẩn xin. Nhưng từ thế kỷ X, lần khẩn xin cuối cùng “Xin thương xót chúng con” được đổi thành “Xin ban bình an cho chúng con”(dona nobis pacem). Đây có lẽ là kết quả của sự nối kết bài ca Lạy Chiên Thiên Chúa với nghi lễ hôn chúc bình an vào thế kỷ IX mà được chuyển từ trước lúc bẻ bánh (nhắm đến bình an nội tâm) sang sau khi bẻ bánh (nhắm vào bình an xã hội)7. Năm 1281. Công đồng Salzburg muốn tín hữu khi hát “Xin ban bình an cho chúng con”(dona nobis pacem) thì phải cầu xin Chúa giải thoát thánh địa vốn đã bị Hồi giáo chiếm cứ từ thế kỷ VII và che chở những ai đi viếng nơi này8. Trong Thánh lễ cầu cho tín hữu đã qua đời trước đây, người ta hát lần thứ I và lần thứ II rằng: “Lạy Chiên Thiên Chúa Đấng gánh tội trần gian, xin cho các linh hồn được an nghỉ” (Agnus Dei, qui tollis peccata mundi: dona eis requiem) nhưng lần thứ III thì thêm từ “muôn đời” vào: “Lạy Chiên Thiên Chúa Đấng gánh tội trần gian, xin cho các linh hồn được an nghỉ muôn đời” (Agnus Dei, qui tollis peccata mundi: dona eis requiem sempiternam), nhưng nay, kể từ nghi thức Thánh lễ 1969, thì không còn nữa9.

Trong Sách lễ 1474 và 1570, việc bẻ bánh diễn ra trước kinh Lạy Chiên Thiên Chúa và vị tư tế đấm ngực 3 lần đang lúc đọc lời kinh này. Kể từ Sách lễ 1970, cử điệu đấm ngực không còn nữa, đồng thời kinh Lạy Chiên Thiên Chúa được hát hay đọc đi kèm với nghi thức bẻ bánh và việc hòa Mình Thánh vào Máu Thánh. Theo QCSL 83: “Ðang khi vị tư tế bẻ bánh và bỏ một phần vào chén thánh thì ca đoàn hay ca viên hát đối đáp hay đọc lớn tiếng kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, và giáo dân đáp lại. Kinh này có thể được lặp đi lặp lại, bao lâu còn cần để kèm theo việc bẻ bánh. Lần cuối cùng được kết thúc bằng câu: “Xin ban bình an cho chúng con”(x. QCSL 155; BTCĐ 73).

 

Ý NGHĨA

Câu “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” thực ra đã được các tín hữu thuộc Giáo Hội Tây phương hát trong kinh Vinh danh rồi. Sở dĩ Đức Giáo hoàng Sergio I (687-701) ra lệnh đưa kinh này vào Thánh lễ là bởi hai lý do: i] Thứ  nhất, dùng bài hát này đồng thời với việc bẻ bánh hầu diễn tả Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, hiến tế vì chúng ta; ii] Thứ hai, đây là câu trả lời trước ý định của Công đồng Trullo (692) khi cấm người ta dùng hình ảnh con chiên để nói về Chúa Giêsu Kitô (Canon 82 – Mansi XI, 977)10

Cộng đoàn đang đọc (hát) kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian...”11, trong khi vị chủ tế bẻ bánh là nhằm diễn tả ý nghĩa của việc hiệp lễ và giúp cho mọi người trong cộng đoàn ý thức về bản tính đáng kính của các mầu nhiệm đang được mở ra trước mắt chúng ta: Tấm Bánh được bẻ ra chính là Chúa Kitô - Chiên Thiên Chúa - Ngài tự hiến để ban sự sống cho nhân loại như con chiên bị đem đi làm thịt (Is 53,7). Đúng như thần học Đông phương đã giải thích: việc bẻ bánh hướng chúng ta đến với cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô. Vì thế, chúng ta được mời gọi để đáp lại một cách xứng đáng quà tặng vĩ đại ấy khi biết “bẻ cuộc đời” mình ra cho người khác.

Câu “Đấng xóa tội trần gian...” phải được hiểu trong thì hiện tại chứ không phải thì quá khứ bởi vì công trình cứu chuộc của Chúa Kitô không kết thúc với cái chết của Ngài, nhưng vẫn đang tiếp diễn mỗi lần Hội Thánh cử hành Thánh lễ.

Lời kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian...” nhắc đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, đồng thời cũng nói lên mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời cứu chuộc nhân loại. Người chia sẻ thân phận con người, để con người được hiệp thông vào bản tính Thiên Chúa của Người. Rước lễ chính là tuyên xưng đức tin sống mầu nhiệm hiệp thông ấy.

 

THỰC HÀNH

Có một số cách để hát kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, chẳng hạn: lĩnh xướng viên hoặc ca đoàn hát một lần và cộng đoàn lập lại; hoặc, lĩnh xướng viên hay ca đoàn hát câu đầu tiên và dân chúng chỉ hát “Xin thương xót chúng con”, và đối với câu cuối cùng cộng đoàn hát “Xin ban bình an cho chúng con”. Kinh này có thể mang hình thức của một kinh cầu. Có thể bổ sung vào lời kinh này những câu Kinh Thánh khác liên quan đến Chúa Giêsu Kitô như: Đức Kitô là bánh hằng sống - Xin thương xót chúng con; Đức Giêsu là con đường, là sự thật và là sự sống - Xin thương xót chúng con; Đức Giêsu là sự sống và sự phục sinh của chúng con - Xin thương xót chúng con”; “Đức Giêsu là nguồn nước hằng sống - Xin thương xót chúng con”…12.

 

 

______________________________________________________

1 Xc. Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the Mass, 106.

2 Xc. Nguyễn Văn Trinh, Phụng Vụ Thánh Lễ (knxb, 1999), 484.

3 Xc. W. Jardine Grisbrooke, “Agnus Dei” trong The New SCM Dictitionary of Liturgy and Worship, ed. Paul Bradshaw (London, SCP Press, 2002), 5; Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu (Sài Gòn: Học Viện Ðaminh, 2012), 266.

4 Xc. Nguyễn Văn Trinh, Phụng Vụ Thánh Lễ (knxb, 1999), 483.

5 Nghi thức Thánh lễ, số 130.

 

6 Xc. East Asian Pastoral Review, Celebrate Life in Liturgy, Vol. 33 (1996), Number 1-4, 109.

7 Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma = QCSL, số 83; 155; Huấn thị Bí tích Cứu độ = BTCÐ, số 73.

8 Xc. Le Gall, La Mess au fil de Ses Rites (Chambray: C.L.D, 2001),204.

9 Xc. Jean Yves Garneau, SSS, Discovering the Eucharist - According to A Ritual Approach, trans. Conrad Goulet, SSS (Makati: St. Paul Publications, 1991), 151.

10 Xc. Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order of the Mass (Washington DC:  FDLC/ NE, 2003), 106; Xc. Nguyễn Văn Trinh, Phụng Vụ Thánh Lễ (knxb, 1999), 483-484.

11 Xc. Andrew J. Gerakas, The Origin and Development of the Holy Eucharist: East and West (NY: Alba House / St. Pauls, 2006), 21.

12 Xc. Josef A. Jungmann, SJ, The Mass: An Historical, Theological, and Pastorical Survey, trans. Julian Fernandes, SJ (Collegeville, Minnesota: The Liturgical Press, 1976), 211.

 

Lm. Giuse Phạm Ðình Ái, dòng Thánh Thể, SSS

 

 

Ý kiến bạn đọc ()
Tin khác
Xem thêm