LƯU Ý MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP
1] Trống ngôi Giáo Hoàng
Nếu Đức Giáo Hoàng đương kim qua đời (sede vacante), cho dầu Đức Giáo Hoàng về hưu vẫn còn sống, thì trong thời gian chờ đợi có Tân Giáo Hoàng, vị tư tế không nêu tên Đức Giáo Hoàng đã quá cố hay tên bất cứ Đức Giáo Hoàng nào khác.
2] Tòa Giám mục trống ngôi
Khi Tòa Giám mục trống ngôi (sede vacante) do Đức Giám mục đương chức qua đời, từ nhiệm hay chuyển đến một tòa khác, giáo phận sẽ được điều hành bởi một linh mục hay giám mục với vai trò làm giám quản giáo phận.[1]
Nếu vị này là một linh mục giám quản do hội đồng tư vấn giáo phận bầu lên hoặc do Đức Tổng Giám mục giáo tỉnh chỉ định [trong trường hợp qua 8 ngày mà vẫn chưa bầu xong] để điều hành tạm thời cho đến khi có một Đức Giám mục khác được bổ nhiệm cai quản giáo phận, thì không cần nêu tên ngài trong Kinh nguyện Thánh Thể vì chỉ nguyên danh hiệu giám quản không phải là danh hiệu phụng vụ và không thuộc về phạm trù nguyên lý hiệp thông như thánh chức giám mục [cùng với Bí tích Thánh Thể] như sẽ nói tiếp dưới đây.[2]
|
Nếu giám quản là một vị giám mục, tên của ngài phải được nêu trong Kinh nguyện Thánh Thể như thường cho đến khi một Đức Giám mục khác được bổ nhiệm về cai quản địa phận qua nghi lễ tựu chức theo đòi hỏi của Giáo luật số 382 [3]. Điều này có nghĩa là dù Tòa Thánh đã công bố danh tánh của vị tân giám mục và đã có văn thư của Tòa Thánh bổ nhiệm ngài làm giám mục chánh tòa coi sóc giáo phận, nhưng tư tế trong giáo phận vẫn chỉ nêu tên Đức Giám mục giám quản chứ không nêu tên vị tân Giám mục này cho tới ngày ngài được phong chức giám mục (nếu chưa chịu chức) và chính thức tựu chức. Tuy nhiên, không được đọc các danh hiệu khác biệt nếu có của vị giám mục giám quản như Tổng Giám mục, Hồng y Tổng Giám mục hay Giám quản Tông tòa. Lý do được nêu đích danh trong Kinh nguyện Thánh Thể không phải vì ngài làm giám quản nhưng vì ngài là giám mục giám quản. Ở một mức độ nào đó, ngài cũng tương tự như vị giám mục giáo phận, cho nên công thức trong Kinh nguyện Thánh Thể không cần thay đổi (vẫn đọc “Đức Giám mục T. chúng con…”). Với thánh chức giám mục mà ngài đã lãnh nhận trong ngày phong chức, ngài lãnh nhận sự sung mãn của Bí tích Truyền Chức (primatus sacerdotii), trở nên người kế vị các Tông đồ để chăn dắt Giáo hội Chúa cũng như thuộc về phạm trù nguyên lý hiệp thông của Giáo hội địa phương [bên cạnh Bí tích Thánh Thể] trong vai trò giám mục giám quản. Tác giả Susan K. Wood nhắc lại rằng, theo Công đồng Vatican II, hai điều cần thiết cho một Giáo hội đặc thù là Thánh Thể và giám mục. Một Giáo hội đặc thù cốt yếu là một cộng đoàn bàn thờ (thờ phượng, altar) quanh vị giám mục của mình.[4]
3] Có nêu tên Đức Giám mục nghỉ hưu không?
Theo tác giả Edward McNamara, chỉ có giám mục giáo phận đương nhiệm mới được nêu tên đích danh trong Kinh nguyện Thánh Thể và việc nêu danh tánh giám mục trong Kinh nguyện Thánh Thể không phải là một vấn đề lịch sự hoặc kính trọng, nhưng là một vấn đề hiệp thông Giáo hội (una cum Papa et Episcopo) [5]. Dựa vào văn thư của Bộ Phụng tự “De nomine Episcopi proferendo in Prece eucharistica” (09-10-1972), cha Đỗ Xuân Quế, OP cũng nhắc lại rằng: “Cầu nguyện cho Đức cha trong Kinh nguyện Thánh Thế vừa là bổn phận vừa là điều phải lẽ, không phải chỉ để tỏ lòng tôn kính mà chính là để biểu lộ mối hiệp thông và tình bác ái đối với ngài, hầu xin ơn trợ giúp cho bản thân và sứ vụ của ngài”(Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694) [6].
Ở cấp độ hoàn vũ, mỗi giám mục giáo phận đại diện cho Giáo hội tại địa phương của mình, và tất cả các giám mục cùng với giáo hoàng đại diện cho toàn thể Giáo hội trong mối dây bình an, yêu thương và hiệp nhất [7]. Giám mục của hai giáo phận có thể thiết lập sự hiệp thông với nhau, nhưng để hoàn toàn thuộc về Giáo hội Công giáo, họ hay Giám mục đoàn, cần phải hiệp thông hữu hiệu với Đức Thánh Cha, ngài làm Đầu cho Thân Thể hay Đoàn Thể các Giám mục, và đó chính là Giám mục Rôma [8]. Ở cấp giáo phận, linh mục đại diện cho các giám mục để thi hành thừa tác vụ rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa [9] Theo Hiến chế “Tín lý về Giáo Hội”(Lumen Gentium), các linh mục là cộng sự viên khôn ngoan, là phụ tá và là dụng cụ của hàng giám mục; Họ phụ thuộc vào các giám mục trong việc thực thi quyền hành của họ” (số 28). Do đó, sự hiệp thông của họ với Bản quyền địa phương không kém phần quan trọng.
Phần trình bày trên giải thích lý do tại sao trong lời chuyển cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể, chúng ta chỉ nêu đích danh danh hiệu của Đức Giáo Hoàng và Đức Giám mục giáo phận đương nhiệm chứ không nêu danh tánh của Đức Giám mục về hưu [hay Đức Giáo Hoàng về hưu]. Các ngài là giám mục và đứng trong hàng ngũ giám mục, nhưng các ngài không còn thi hành sứ vụ cai quản giáo phận [hay Giáo hội hoàn vũ] như khi đương chức. Lúc này, các ngài không còn là biểu tượng, là sự diễn tả của sự hiệp thông, hay chịu trách nhiệm cho mối dây hiệp thông của Giáo hội địa phương hoặc của Giáo hội hoàn vũ nữa. Vì vậy, như đã nói, các ngài được xếp nằm trong lời cầu nguyện cách chung (không nhắc tên đích danh) dành cho tất cả các giám mục và cho toàn thể hàng giáo sĩ nhằm biểu hiện mối dây hiệp nhất của cộng đoàn tín hữu với các ngài là những vị mục tử trong Hội Thánh [10].
Tuy không đưa tên Đức Giám mục nghỉ hưu vào Kinh nguyện Thánh Thể, nhưng các cộng đoàn giáo xứ và dòng tu trong giáo phận nên cầu nguyện luôn cho ngài trong phần Lời nguyện Tín hữu của thánh lễ hằng ngày hay trong Lời cầu của Giờ kinh Phụng vụ mỗi ngày. Nhiều người lầm tưởng rằng chỉ dâng Lời nguyện Tín hữu trong thánh lễ Chúa nhật hay những dịp trọng thể. Thực ra, Hội Thánh khuyến khích dâng Lời nguyện Tín hữu mỗi ngày trong mọi thánh lễ có giáo dân tham dự [11].
Về vấn đề điều chỉnh thêm thắt những chi tiết khác vào trong các văn bản hoặc chữ đỏ của Thánh lễ nói chung và trong Kinh nguyện Thánh Thể nói riêng, các vị tư tế nên nhớ rằng, thánh lễ thuộc về toàn thể Hội Thánh và là một phần quan trọng của “Kho tàng đức tin” [12] nên chỉ có Huấn quyền của Giáo hội (Magisterium) mới có quyền thay đổi, ngay cả giám mục giáo phận cũng không có thẩm quyền trừ ra phải tuân theo những thủ tục nghiêm ngặt, như phải có những lý do mục vụ hết sức cần thiết, được Hội đồng Giám mục thông qua [với 2/3 số giám mục đồng ý] và phải trình lên Tòa Thánh để được phê chuẩn trước khi đem áp dụng. Vì thế, các linh mục càng phải tránh xa thói quen tự ý thêm thắt điều này điều kia vào trong Kinh nguyện Thánh Thể [13].
(Hết)
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, Dòng Thánh Thể (SSS)
____________________________________________________________
1 Xc. Giáo Luật số 416.
2 Xc. Giáo Luật số 419; 421#1; LG,số 20; 21; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo hội như là hiệp thông” (ngày 28 tháng 5 năm 1992), số 14.
3 Xc. Bộ Phụng tự Thánh, Sắc lệnh Cum de nomine (AAS 64 [1972], 692-694.
4 Xc. LG, số 20-23; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo hội như là hiệp thông”, số 14; Susan K. Wood, “The Church as Communion” trong Peter C. Phan (ed), The Gift of the Chuch (Minnesota: A Pueblo, The Liturgical Press, 2000), 159-176.
5 Xc. Edward McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers”; Notitiae 45 (2009) 308-320.
6Đỗ Xuân Quế, “Đọc tên Đức Cha trong Kinh nguyện Thánh Thể” trong http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Phungvu/69KinhNguyenTT.htm
7 Xc. LG, số 23.
8 Ibid., số 22b; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo hội như là hiệp thông”, số 12.
9 Xc. LG, số 28.
10 Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 79g; 92; Edward Foley(ed),A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, 250-251
11 Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 69; Joseph DeGrocco, A Pastoral Commentaty on theGeneral Instruction of the Roman Missal(Chicago:Liturgy Training Publication, 2011), 48.
12 Xc. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 84.
13 Xc. Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 22; Giáo luật838, 846, 928; Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 24; Paul VI, address of August 22, 1973: L’Osservatore Romano(August 23, 1973); Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 51 và 59; Tông Huấn Sacramentum Caritatis, số 37-40;Inaestimabile Donum, số 5; Edward McNamara, “Inserts into Eucharistic Prayers”.
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, tòa soạn sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng cgvdt.vn của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Báo Công giáo và Dân tộc, website: cgvdt.vn”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Công giáo và Dân tộc.