Thăm trại phong Di Linh – Lâm Đồng, chúng tôi dành thời gian ghé vào nhà truyền thống nơi đây. Cùng với những kỷ vật còn lại bên trong căn nhà cũ, hình ảnh về “cha Sanh” của những bệnh nhân phong vùng sơn cước Di Linh càng trở nên sống động hơn bất cứ câu chuyện nào đã được nghe.
Chiếc tủ ngày nàoĐức cha Jean Cassaigne đựng vật dụng được lưu giữ lại phòng truyền thống của trại phong Di Linh |
Đức cha Jean Cassaigne sinh ra tại vùng Toi Urgons-Grenade (Pháp). Ngài được thụ phong linh mục vào năm 1925 và thuộc Hội Thừa Sai Paris. Năm 1926, ngài sang Việt Nam truyền giáo và chỉ năm tháng sau đó được bổ nhiệm làm cha xứ giáo xứ Di Linh. Giáo dân Di Linh lúc ấy toàn người dân tộc thiểu số. Cuộc sống của họ khó khăn trăm bề. Trong thời gian phục vụ ở xứ, không chỉ chăm lo cho đời sống đức tin của bà con, ngài còn mở ra những lớp dạy chữ để nâng cao dân trí cho họ. Nhưng dấu ấn đậm nét nhất trong cuộc đời của vị linh mục này chính là hành trình đỡ nâng, cứu giúp người mắc phải bệnh phong. Trong những lần đem thuốc men, lương thực đến tiếp tế cho họ, chứng kiến các bệnh nhân bị xua đuổi, hắt hủi, trong lòng ngài trĩu nặng và muốn làm điều gì đó cho những con người khốn khổ ấy. Năm 1929, Đức cha lập ra làng phong với những chòi lá đơn sơ nằm dưới chân đồi, cách nhà xứ Kala gần 1 km. Đây chính là “ngôi nhà chung” đón nhận những bệnh nhân phong vùng Di Linh. Với sự cộng tác của các nữ tu dòng Bác ái Vinh Sơn, tại ngôi làng nhỏ bé này, ngài vừa làm cha sở, giám đốc, vừa lo việc y tế... cho những người mắc bệnh phong.
Bàn làm việc và chiếc máy đánh chữ củaĐức cha Jean Cassaigne một thời |
Thời gian Đức cha Cassaigne ở trong Trại phong Di Linh có thể chia ra làm hai quãng. Thời kỳ đầu là khi thành lập đến khi nhận được bài sai về làm Giám mục và Giám quản Tông tòa Giáo phận Sài Gòn vào năm 1941. Kế tiếp là khi Đức cha quay trở về Di Linh vào năm 1955 và phục vụ cho đến cuối đời rồi mất ở đó năm 1973. Trong cả hai khoảng thời gian ấy, ngài sống trong căn nhà gỗ nằm sát bên nhà nguyện. Đến nay, căn nhà này vẫn được giữ lại nguyên vẹn. Ấn tượng đầu tiên khi bước vào đây chính là sự giản dị. Nhà chia ra hai gian, một bên là phòng tiếp khách, bên còn lại dùng để nghỉ ngơi. Vật dùng bên trong phòng khách vỏn vẹn chỉ có hai chiếc tủ, một bộ bàn ghế và chiếc bàn con, bên trên là máy đánh chữ. Nơi để nghỉ ngơi cũng chỉ vừa đủ kê chiếc giường sắt (đây cũng chính là chiếc giường ngài đã nằm cho tới lúc mất) và tủ áo. Trên bàn cạnh giường ngủ của cha, có vài vật lưu niệm. Được biết đây là quà của một số người Pháp đến thăm trại phong đã từng tặng cho Đức cha.
Bên trên tấm vách nhà, hình ảnh về Đức cha Cassaigne và những người phong được dán ngay ngắn, tổng hợp thành những bức lớn, dưới mỗi tấm ảnh nhỏ đều ghi chú thích cẩn thận. Giữa các tấm ảnh ấy, khách tham quan có thể đọc được những câu quen thuộc trích từ Kinh Thánh như “Anh em là bạn hữu của thầy” (Gioan 15,14), “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người biết hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Gioan 15,13)... Đây chính là những vết tích còn lại từ con đường đồng hành với người phong của vị thừa sai luôn mang trong lòng khẩu hiệu “Bác ái và yêu thương”.
Việc giữ lại nguyên trạng nơi ở của Đức cha Cassaigne chính là một cách để tưởng nhớ đến ngài. Cũng từ đây, các thế hệ sau sẽ biết đến một vị mục tử đã dành gần trọn cuộc đời của mình để phục vụ những người bất hạnh trên dải đất cao nguyên này. Trại Phong Di Linh để lại dấu ấn đậm nét hơn cho khách đến thăm, có lẽ cũng từ những hình ảnh sống động được lưu giữ như thế.■
Đỗ Yên
Bình luận