“Lễ Chúa Hiển Linh” theo cách gọi của lịch phụng vụ ngày nay, được người Công giáo Việt Nam ngày xưa gọi là “Lễ Ba Vua”. Cách gọi hiện nay nói lên việc Chúa tỏ mình ra, còn cách gọi trước kia nói lên việc đi tìm gặp Chúa. Tổng hợp cả hai cách gọi, chúng ta có một nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của lễ này: Con người cần đi tìm Chúa, nhưng nếu Chúa không tỏ mình ra thì dù có đi tìm cũng không gặp.
Ba “vua” có thể là các vị vua của các nước láng giềng Do Thái, có thể là các “đạo sĩ”, những nhà thông thái ở vùng phía đông nước Do Thái. Điều quan trọng chúng ta cần lưu ý là “đi tìm” và “tỏ mình”: Tiên quyết là việc Chúa tỏ mình qua ngôi sao lạ, còn việc các đạo sĩ đi tìm Ngài như họ nói là do “chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Ngài”. Trước đó, các mục đồng cũng đã được Chúa tỏ mình do sứ thần báo tin qua dấu hiệu “một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”. Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy: Các tông đồ và dân chúng đã được Chúa Kitô tỏ mình qua lời giảng và các dấu lạ Ngài làm; ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô không phải tự ông biết mà do Chúa Cha mặc khải; Madalena cũng như hai môn đệ đi Emmaus đã trò chuyện với Chúa mà không gặp được Chúa cho đến khi được Chúa tỏ mình ra… Tuy nhiên, tất cả đều là những người luôn hướng về Chúa, muốn theo Chúa, muốn tìm gặp Chúa.
Trong bài giảng lễ Chúa Hiển Linh năm 2024, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Các đạo sĩ có đôi mắt hướng lên trời, nhưng đôi chân họ bước đi trên mặt đất và trái tim của họ phủ phục tôn thờ”.
Phúc Âm nhấn mạnh rằng, các nhà thông thái sấp mình thờ lạy: Sự thờ lạy đi đôi với việc sấp mình, cử chỉ này cho thấy rằng họ khiêm nhường chào đón Đấng tỏ mình ra trong sự khiêm hạ; đây là cách họ mở lòng ra để thờ phượng Thiên Chúa. Rồi các đạo sĩ mở kho báu và dâng cho Hài Nhi Giêsu vàng, nhũ hương và mộc dược. Theo thánh Grêgôriô Cả, với những món quà bí nhiệm này, họ cho biết họ tôn thờ ai: với vàng, họ tuyên bố rằng Ngài là Vua; với trầm hương rằng Ngài là Thiên Chúa; với mộc dược rằng Ngài mang thân phận phải chết. Một Thiên Chúa đã trở thành con người, một vị vua đã đến để phục vụ, phục vụ đến mức hiến mạng sống cho người mình yêu. Đối diện với mầu nhiệm này, chúng ta được mời gọi sấp mình thờ lạy, nghĩa là tôn thờ Thiên Chúa là Đấng đã đến trong sự nhỏ bé khiêm hạ, Đấng đã chết vì yêu, Đấng ngự trong cuộc sống bình thường ở gia đình chúng ta. Những kho tàng mà các đạo sĩ mang đến là hình ảnh của trái tim rộng mở: Sự giàu có thực sự không nằm ở danh vọng và thành công, mà ở sự khiêm tốn, ở ý thức cần ơn cứu độ; và đây là tấm gương của các đạo sĩ để lại. Hơn nữa, các đạo sĩ không phải là “dân riêng” của Chúa mà là “dân ngoại” đã được Chúa tỏ mình; đó là lời mời gọi loan báo Tin Mừng về việc Chúa muốn cứu rỗi hết mọi người.
Trong bài đọc II (x. Ep 3,2-6), thánh Phaolô khẳng định: “Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô”. Để thấy được ý nghĩa sâu xa của đoạn thư này, trước hết chúng ta lưu ý đến tâm thức của người Do Thái. Họ cho rằng mình là dân tộc được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn, cho nên ơn cứu độ là độc quyền của họ. Nhưng thánh Phaolô không nghĩ như vậy. Trong thư viết cho “dân ngoại” thành Êphêsô, thánh nhân tiết lộ cho họ biết một “mầu nhiệm”, đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng này, mọi dân tộc đều trở thành “đồng một thân thể” với nhau và với Đức Giêsu Kitô; hơn thế nữa, họ trở nên “đồng thừa tự” để hưởng gia tài của Đức Giêsu Kitô và “đồng thông phần” với lời hứa cứu rỗi của Ngài.
Mừng Lễ Hiển Linh, cũng như mừng Năm Thánh 2025, mỗi người có thể tự kiểm: Chúa luôn tỏ mình, nhưng chúng ta có nỗ lực và kiên trì đi tìm gặp Chúa không? Khi gặp được Chúa rồi, có biết chia sẻ niềm vui của Tin Mừng cho người khác không?
Giám mục Antôn Vũ Huy Chương
Bình luận