Thứ Bảy, 05 Tháng Chín, 2015 13:10

Philadelphia: Trưng bày về tự do tôn giáo ở Mỹ (P1)

Hội đồng Tòa thánh về Gia đình (Pontifical Council for the Family) của Giáo triều Roma do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thành lập năm 1981, để thay thế Ủy ban Gia đình (the Committee for the Family) do Đức Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI sáng lập năm 1973. Hội đồng này đảm trách thăng tiến mục vụ và sứ vụ tông đồ gia đình, qua việc thực thi huấn giáo và những hướng dẫn của Hội thánh, giúp cho các gia đình Kitô hữu hoàn thành sứ mệnh giáo dục và tông đồ của mình.

Tháng 9 năm nay, từ ngày 22 đến 27, tại thành phố Philadelphia (bang Pennsylvania, Hoa Kỳ), Hội đồng nói trên tổ chức Đại hội Gia Đình Thế giới (the World Meeting of Families) lần thứ tám. Đây là cuộc hội ngộ quy tụ người tham dự đến từ khắp nơi trên thế giới để cùng cầu nguyện, học hỏi giáo lý, tăng cường mối liên kết giữa các gia đình, khẳng định giá trị tối quan trọng của hôn nhân và gia đình đối với mọi người trong xã hội.

Mặt tiền Trung tâm Hiến pháp Quốc gia (Mỹ). Trên bức tường bên phải ghi trọn câu văn mở đầu Hiến pháp Hoa Kỳ (dịch): "Chúng tôi, nhân dân Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ với mục đích xây dựng một liên bang hoàn hảo hơn nữa, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong nước,  tạo dựng phong thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong toàn khối, giữ vững nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta, quyết định xây dựng Hiến pháp này cho Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ".*

Nhân Đại hội toàn cầu này, Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ đến thành phố Philadelphia vào sáng ngày 26, sau khi đã ghé thủ đô Washington và thành phố New York (bang New York). Tính ra, Đức Phanxicô là vị Giáo hoàng thứ tư đặt chân lên nước Mỹ. Trước đây đã có ba vị tiền nhiệm của ngài tới Hợp Chúng Quốc chín lần: Đầu tiên là Đức Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI sang Mỹ vào tháng 10 năm 1965. Sau đó, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II công du nước Mỹ bảy lần (1979, 1981, 1984, 1987, 1993, 1995, 1999). Vị thứ ba là Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI (tháng 4 năm 2008).

Như vậy, sau lần cung nghinh Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1979, đây là lần thứ hai thành phố Philadelphia lại được vinh dự đón tiếp thêm một vị Giáo hoàng. Trước sự kiện rất trọng đại và rất ý nghĩa này, một số cơ quan dân sự và bảo tàng đặt tại thành phố Philadelphia đang tổ chức nhiều hoạt động đặc biệt.

Một trong các hoạt động quan trọng nhất chính là đợt trưng bày với chủ đề “Tự do Tôn giáo và sự Thành lập nước Mỹ” (Religious Liberty and the Founding of America), khai mạc ngày 21-8-2015 và bế mạc ngày 03-01-2016 tại viện bảo tàng lịch sử mang tên Trung tâm Hiến pháp Quốc gia (the National Constitution Center), thành lập ngày 17-9-2000, và chính thức mở cửa ngày 04-7-2003. Từ năm 2013, Trung tâm đặt dưới quyền quản trị của Jeffrey Rosen là chủ tịch kiêm CEO (giám đốc điều hành). Sinh năm 1964, Rosen còn là một nhà bình luận danh tiếng về pháp luật, giáo sư luật học, xuất thân từ Viện đại học Harvard, Trường Luật Yale, và Viện đại học Oxford...

Jeffrey Rosen - Giám đốc Trung tâm Hiến pháp Quốc gia (Mỹ) 

Vì chủ đề của cuộc trưng bày mùa Thu là Tự do Tôn giáo và sự Thành lập nước Mỹ nên tờ báo điện tử của tổng giáo phận Philadelphia là CatholicPhilly.com phát hành ngày 28-8 đã đăng bài viết của Lou Baldwin nhắc tới chuyện xưa, liên quan tới vấn đề kỳ thị Công giáo ở Mỹ, xảy ra cách đây non một thế kỷ. Theo bài báo, hồi đó thiên hạ đồn rùm lên rằng Al Smith thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ bởi vì ông theo Công giáo, và còn bởi vì đã có “tin vịt” rêu rao rằng ông sẽ rước Đức Giáo hoàng Piô XI (làm Giáo hoàng từ 1922-1939) sang thăm Hoa Kỳ.

Nhân vật bài báo nhắc tới chính là Alfred Emanuel Smith (1873-1944), thường gọi thân mật là Al Smith, thuộc đảng Dân chủ. Được bầu làm thống đốc thứ bốn mươi hai của bang New York trong bốn lần tranh cử (1918, 1922, 1924, 1926), nhưng trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 1928, Al Smith lại phải chịu thua đối thủ là Herbert Hoover (1874-1964), thuộc đảng Cộng hòa. Thiên hạ cho rằng bởi vì Hoover theo đạo Tin Lành (phái Quakers) nên được đa số cử tri ủng hộ, và ông đắc cử, trở thành tổng thống thứ ba mươi mốt của Hợp Chúng Quốc (nhiệm kỳ 1929-1933).

Nguyên nhân thật sự khiến ứng cử viên Al Smith thất bại có lẽ không đơn giản chỉ vì lý do tôn giáo; tuy nhiên lời huyên truyền xa xưa đó dường như phản ánh một khía cạnh là quả thật ở Mỹ đã có kỳ thị Công giáo! Nói khác đi, hành trình tự do tôn giáo cũng lắm nỗi thăng trầm trong lịch sử Hợp Chúng Quốc, và vì thế người ta hiểu rằng Jeffrey Rosen đã rất sâu sắc khi cho trưng bày tại Trung tâm Hiến pháp Quốc gia những văn kiện pháp lý nhằm minh họa tiến trình phát triển của khái niệm tự do tôn giáo, kể từ khi Hoa Kỳ còn là mười ba bang thuộc địa của đế quốc Anh nằm trên bờ biển phía đông Bắc Mỹ. Tiến trình phát triển này khởi đầu với “Tự do Tôn giáo ở Hoa Kỳ thuộc địa Anh” (Religious Liberty in Colonial America), kế tiếp là “Tự do Tôn giáo trong Hiến pháp” (Religious Liberty in the Constitution), và “Di sản của Tự do Tôn giáo” (The Legacy of Religious Liberty).

Tác giả Lou Baldwin cho biết trong lịch sử ban sơ của những người di dân sang Mỹ như tín đồ Thanh giáo (Puritans, gốc ở Anh), khi định cư ở Massachusetts (Mỹ) họ đã bị các cộng đồng khác tín ngưỡng cấm đạo và bách hại.

Lou Baldwin dẫn lại lời Jeffrey Rosen như sau: “Chín trong số mười ba bang thuộc địa của Anh có thành lập các giáo hội (churches). Nhiều bang đánh thuế để ủng hộ giáo hội, một số bang chỉ cho phép những người thuộc giáo hội của họ mới được giữ chức vụ trong các cơ quan công quyền. Một số tín hữu - Công giáo, Tin Lành (phái Báp Tít), và Do Thái giáo - phải giáp mặt với nạn phân biệt tôn giáo. Chúng tôi có giữ các hiến chương (charters) thời ban sơ đó, chúng rao giảng tự do tôn giáo nhưng lại cấm những người không theo Tin Lành nắm giữ các chức vụ trong chính quyền”.

Để thoát khỏi ách cai trị của đế quốc Anh, mười ba bang thuộc địa nổi lên làm cuộc cách mạng giành độc lập kéo dài mười hai năm (1775-1783). Kể từ thời điểm nổ ra cuộc cách mạng đó trở ngược về trước, theo bài báo của Baldwin, trong số mười ba bang thuộc địa chỉ có hai bang Pennsylvania và Rhode Island thực thi liên tục chính sách tự do tôn giáo. Tuy nhiên, riêng ở Pennsylvania đã có thực trạng là Hiến chương về Đặc quyền năm 1741 (the Charter of Privileges of 1741) một mặt lên tiếng bảo vệ bất kỳ tín đồ của một tôn giáo nhất thần (monotheistic religion), nhưng mặt khác lại tự mâu thuẫn khi hạn chế ngõ vào các cơ quan công quyền, chỉ dành “cửa hẹp” riêng cho những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Ở bang thuộc địa Virginia, các công chức phải có lời thề rằng họ chối bỏ giáo lý Công giáo, và trong số những người đã từng thề thốt như vậy có chàng trai George Washington (1732-1799), là tín đồ Tin Lành thuộc Giáo hội Episcopal Mỹ (PECUSA: the Protestant Episcopal Church in the United States of America), sau này làm tổng thống đầu tiên của Mỹ (hai nhiệm kỳ, 1789-1797).

(còn nữa)

Huệ Khải

* We the People of the United States, in Order to form a more perfect Union, establish Justice, insure domestic Tranquility, provide for the common defence, promote the general Welfare, and secure the Blessings of Liberty to ourselves and our Posterity, do ordain and establish this Constitution for the United States of America.

 

Ý kiến bạn đọc ()
Tin tức liên quan
Tin khác
Xem thêm