Từ Ngũ Tuần trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “thứ năm mươi”. Trong Cựu Ước, lễ Ngũ Tuần là lễ cử hành vào ngày thứ 50 sau lễ dâng lúa đại mạch đầu mùa (Lv 23,15-16).
Quyền hạn tông đồ trực tiếp bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô. Đấng trao sứ mệnh cho các tông đồ. Quyền hạn này được bảo tồn trong Hội Thánh.
Đường, từ ngữ được dùng theo nghĩa ẩn dụ để nói về đức tin Kitô giáo (nhất là trong sách Công vụ) và về Chúa Giêsu Kitô. Tin vào Chúa Giêsu Kitô là đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ loài người. Từ ngữ này thường được Kinh Thánh dùng để diễn tả những khía cạnh khác nhau trong đời sống người tín hữu.
Con chiên là nét đặc trưng của nền kinh tế nông thôn Israel thời xưa. Dầu con chiên là nguồn thực phẩm và len, nó cũng biểu trưng cho sự cô thân cô thế cần được dẫn dắt.
Xem mặt mà bắt hình dong. Những đặc tính của khuôn mặt được nhận diện có tính cá vị. Khuôn mặt cho thấy tính tình và thái độ. Việc tỏ mặt hay hướng mặt về một người hay một vật nào đó cho thấy sự kính trọng, ưng thuận hay cương quyết. Ngược lại giấu mặt hay quay mặt đi cho thấy sự chống đối.
Hình ảnh hơi thở thường được dùng để truyền đạt yếu tính và quyền lực thiêng liêng, không nhìn thấy được mà chỉ thấy hiệu quả của nó, bao gồm cả cá vị và hành động của Chúa Thánh Thần. Những từ ngữ chính của tiếng Do Thái và Hy Lạp thường được chuyển dịch thành “Thần Khí” và “gió”…
Chúa, danh hiệu diễn tả uy quyền tuyệt đối của Chúa Giêsu Kitô và nền tảng người ta cần nhận biết về Người. Danh hiệu này đặc biệt nối kết với sự phục sinh và việc Người lại đến.
Thử thách là phương cách kiểm nghiệm tính chân thực của đức tin và phát triển tư cách kitô hữu. Thiên Chúa trợ giúp dân Người những khi bị thử thách.
Ánh sáng thường được Thánh Kinh dùng làm biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian. Nó đặc biệt liên hệ tới lời Chúa, tới ơn cứu độ được thực hiện do Thiên Chúa, hay do Chúa Giêsu Kitô.