(Thứ Năm sau Chúa Nhật XXXIII TN – Lc 19,41-44)
Giêrusalem nguyên nghĩa là thành phố của hòa bình của bình an. Nhiều năm gần đây hiện trạng của thành phố không như cái tên của nó mà như là trái lại. Giêrusalem đã trở thành nơi của sự bất ổn, đầy dẫy sự chia rẽ dưới nhiều hình thức từ chính trị xã hội đến cả tôn giáo. Đã từng có nhiều cuộc chiến tranh diễn ra ở đây và hiện nay nhiều vẫn tiềm ẩn sự xung đột nơi chính thành phố mang tên hòa bình. Dù rằng năm 1981 thành phố này trở thành Di sản Thế giới nhưng vẫn nằm trong danh sách Di sản Thế giới đang bị đe dọa.
Bài Tin Mừng ngày thứ Năm sau Chúa Nhật XXXIII thường niên, Giáo hội cho chúng ta nghe trích đọc, tường thuật những lời than thở, thương tiếc của Chúa Giêsu với thành thánh Giêrusalem. Dĩ nhiên chúng ta hiểu không phải Chúa Giêsu than thở cái thành bằng gỗ đá vật chất nhưng thực ra Người thương tiếc cho cảnh tình dân chúng đang ở trong thành về cái tương lai rất gần mà Người tiên lượng sẽ xảy ra. Và quả thật nó đã xảy ra cách cụ thể vào năm 70 khi dân Do Thái nổi loạn thì vị tướng Rôma là Titô đem quân đi đánh dẹp loạn và rồi san phẳng Giêrusalem thành bình địa theo kiểu nói của Chúa Giêsu là chẳng còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào (x. Lc 21,6).
Cũng như lịch sử các quốc gia, lịch sử đời người thường có những lúc thăng trầm. Bình yên có. Sóng gió không thiếu. Khoảng thời gian khốn khó lại được nhìn với cái nhìn tâm lý nên dễ phóng đại đến độ cha ông chúng ta than thở: “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Chính vì thế mà sự bình an là điều mơ ước của con người mọi thời, mọi nơi. Theo nhãn quan người đời thì sự bình an là tình trạng không gặp phải những sự khốn khó như chiến tranh, tai ương, hoạn nạn, dịch bệnh, mất mùa… Dưới cái nhìn đức tin, sự bình an đích thực là tình trạng được Thiên Chúa ở cùng, yêu thương, đón nhận mình như mình đang là. Và lời than thở của Chúa Giêsu được hiểu theo viễn kiến này.
Hỡi Giêrusalem, “phải chi, ngày hôm nay người cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được” (Lc 19,42). Chúng ta có thể hiểu điều che khuất căn tính của Đấng Thiên Sai chính là nhân tính của Người, cụ thể là quê quán Nagiarét, xứ Galilê và địa vị thấp hèn cũng như quyền bính như chẳng có gì của Người trong xã hội và trong Giáo hội Do Thái giáo lúc bấy giờ. Thánh sử Luca tường thuật dữ kiện tiếp liền sau đó là việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ và các Thượng Tế cùng các kinh sư đã chất vấn Người: “Ông lấy quyền gì mà làm những điều ấy?”(Lc 20,1).
Xưa để đem bình bình an cho ngôn sứ Êlia trước sự truy diệt của hoàng hậu Dêgiaben thì Thiên Chúa đã không ngự trong “gió to bão lớn, trong động đất hay lữa, nhưng Người hiện diện trong cơn gió hiu hiu” (x.1V 19.9-14). Ơn bình an của Thiên Chúa thật diệu kỳ. Nó không khởi đi từ những cuộc lễ hoành tráng, kiệu rước. Nó cũng không khởi đi từ chức cao quyền lớn. Ơn bình an thường đến với chúng ta qua sự hiện diện của một ai đó, những ai đó thật đơn sơ, nhưng luôn đồng cảm, đồng hành với chúng ta trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Và có thể gọi đó là những người bạn tri kỷ, tri âm, đồng cam, cộng khổ.
Biết bao tâm hồn đau thương dập nát đã hưởng nhận sự bình an qua đôi tay, tấm lòng của mẹ Têrêxa thành Calcutta. Biết bao bệnh nhân Covid-19 đã có được sự an bình qua sự hiện diện của các linh mục, tu sĩ, thiện nguyện viên tại các bệnh viện tuyến đầu. Chúa Kitô vẫn mãi đồng hành với nhân loại, đặc biệt là với những con người đau khổ. Kitô hữu chúng ta trước hết phải cảm nghiệm cách sâu xa chân lý này thì chúng ta mới có thể giúp tha nhân nhận ra sự hiện diện Đấng Cứu Thế để giúp nhau có được sự bình an giữa cảnh đời mà dường như “ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Nhiều nhà lãnh đạo Do Thái thời Chúa Giêsu tại Giêrusalem đã không nhận ra hiện thực này vì thế không chỉ họ mà cả dân chúng trong vòng hơn ba mươi năm sau đó đã phải lâm cảnh bĩ cực khốn cùng trong sự bất an khiến Chúa Giêsu đã phải lệ rơi.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – giáo phận Ban Mê Thuột
Bình luận