Phương Nam có sự bao dung đón nhận văn hóa của nhiều tộc người, trong đó văn hóa của người Việt đóng vai trò chủ yếu, và lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chánh.
Nguyễn Hữu Cảnh |
1.
1a) Thế kỷ 17, 18, toàn vùng phương Nam chưa có một tên gọi chung, mà chỉ đặt định một số Trấn (鎮), Dinh (營), Đạo (道).v.v… Xin được gọi chung theo địa lý là “vùng Châu thổ Đồng Nai - Cửu Long” (gốc gác là vùng Thủy Chân Lạp). Mãi đến gần cuối thế kỷ 18, năm 1779 mới có tên gọi chung là “GIA ĐỊNH” thời Nguyễn vương, tức Nguyễn Phước Ánh, sau đó lại gọi là “NAM KỲ” rồi “NAM BỘ”...
Thời các chúa Nguyễn: đây là thời kỳ định cõi, xác lập chủ quyền của triều đình Đàng Trong (các chúa Nguyễn) đối với toàn bộ vùng châu thổ Đồng Nai - Cửu Long. Trong thời kỳ định cõi này, xuất hiện “người Minh hương”. Có thể kể đến tùy tùng, gia quyến của Dương Ngạn Địch - Trần Thượng Xuyên, và Mạc Cửu. Họ là người Hoa, theo phong trào “phản Thanh phục Minh” (chống đối nhà Thanh đương triều), lưu lạc đến Đàng Trong.
1b) Vì sao họ không cập bến ở Đàng Ngoài (về địa lý, vượt biển từ Trung Hoa đến Đàng Ngoài sẽ gần hơn)? Rất dễ hiểu, chúa Trịnh - vua Lê ở Đàng Ngoài có mối bang giao với nhà Thanh lúc bấy giờ, vua Lê còn được nhà Thanh ban phát cho cái danh “An Nam quốc vương”. Triều đình ngoài Bắc đâu thể đón nhận những người Hoa “phản Thanh”, ăn nói làm sao trước triều đình nhà Thanh? Nên đoàn lưu dân người Hoa mà xin tỵ nạn ở Đàng Ngoài ắt gặp bất trắc.
Còn chúa Nguyễn? Sẵn sàng, không e ngại!
Chẳng hạn, chúa Nguyễn - sau khi thông báo và được sự thuận tình từ phía vua Chân Lạp - đã cho phép Dương Ngạn Địch vào khai khẩn tại vùng đất “Mi Sor” (theo tiếng Khmer) mà người Việt gọi thành “Mỹ Tho”.
1c) Từng có người viết “chúa Nguyễn giao cho họ (người Hoa) chiếm cứ...”. Làm gì có “chiếm cứ” ở đây? Nên nhớ: đất Mi Sor (“Mỹ Tho”) lúc bấy giờ (năm 1679) về danh nghĩa vẫn thuộc chủ quyền của Chân Lạp, nên chúa Nguyễn sau khi có được sự thuận tình từ Chân Lạp đã cho phép Dương Ngạn Địch định cư (không phải “chiếm cứ”). Nửa thế kỷ sau, vào năm 1731, vùng đất Mi Sor, tức “Mỹ Tho”, được vua Chân Lạp chính thức trao cho chúa Nguyễn (chú ý: Chân Lạp không dâng Mỹ Tho cho Dương Ngạn Địch). Mỹ Tho thuộc về nước Nam là bởi chúa Nguyễn (còn Dương Ngạn Địch đóng vai trò khai khẩn tại nơi này).
2.
2a) Châu thổ Đồng Nai - Cửu Long rộng lớn, do công trạng của lớp lớp lưu dân người Việt từ miền Trung vào Nam khẩn hoang, định cõi. Xin nhắc: lưu dân từ Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức - tức Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và xứ Nẫu (Bình Định, Phú Yên)..., tất cả đều thuộc Đàng Trong. Tài năng của các chúa Nguyễn trong việc đưa hàng triệu lưu dân người Việt - bằng các chính sách khẩn hoang ưu đãi, tự do - đã làm nên một miền Nam thịnh vượng!
Có thể kể đến công trạng của một số vị: Nguyễn Hữu Cảnh (sinh quán Quảng Bình) được chúa Nguyễn cử vào làm kinh lược, xác lập chủ quyền đầu tiên tại vùng Sài Gòn - Gia Định (1698). Nguyễn Cư Trinh (sinh quán Thừa Thiên - Huế), quan của triều đình chúa Nguyễn, là người hoàn tất việc xác lập chủ quyền toàn vùng miền Nam (1757). Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, và hàng loạt danh tướng nữa, đều là người Việt. Hàng triệu lưu dân Ngũ Quảng, xứ Nẫu vô Nam khẩn hoang định cõi, đều là người Việt.
2b) Mạc Cửu, Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên là “phản Thanh phục Minh”. Người miền Nam biết rõ như vậy, biết họ mang thân phận lâm vào đường cùng, nên thương, không xua đuổi mà sẵn sàng giang tay đón nhận. Họ đồng lòng đồng sức với người Việt, cùng nhau dựng xây miền Nam thành nơi đáng sống.
Sự tiếp biến văn hóa, và bao dung nơi vùng châu thổ Đồng Nai - Cửu Long giúp cho lớp lớp hậu duệ người Minh hương, sau trăm năm, đều đã trở thành người Việt.
Trần Văn Thành |
3.
Cần ghi chú tổng quan: “Thiên Địa hội”, được thành lập bên Trung Hoa vào năm 1660, với phương châm “phản Thanh phục Minh”. Những đợt lưu dân Minh hương đến Đàng Trong, hẳn nhiên, kéo theo những hoạt động của Thiên Địa hội... Năm 1911, sau cách mạng Tân Hợi, nhà Thanh sụp đổ, đương nhiên Thiên Địa hội không còn lý do để tồn tại (đâu còn nhà Thanh nữa mà chống, gọi là “phản Thanh”). Kể cả Nghĩa hòa đoàn, ở bên Tàu, với phương châm “phò Thanh diệt Dương” (phò nhà Thanh chống Tây). Đâu còn nhà Thanh, cũng đâu còn Tây cai trị từ năm 1911. Thiên Địa hội, Nghĩa hòa đoàn ở miền Nam cũng vậy, không còn tồn tại theo tôn chỉ ban đầu.
Chùa Tam Bửu, trụ sở đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, do Bổn sư Ngô Lợi thành lập |
4.
Giữ vai trò chủ chốt, trong thời kỳ kháng Pháp, là NGƯỜI VIỆT. Kháng Pháp ở miền Nam giai đoạn đầu xuất hiện nhiều tổ chức rất đa dạng, với những hành trạng ly kỳ, hấp dẫn, tạo nên bản sắc độc đáo. Như anh hùng Nguyễn Trung Trực, được tôn làm “Thượng đẳng đại thần” trong đạo Bửu Sơn kỳ hương, đạo Phật giáo Hòa Hảo. Như quản cơ Trần Văn Thành với khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873) ở An Giang, là đệ tử của Phật thầy Tây An (đạo Bửu Sơn kỳ hương). Như Bổn sư Ngô Lợi (1831-1890), lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Khởi nghĩa chống Pháp ở Mỹ Tho, ở Tri Tôn (An Giang).v.v…
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận