Thứ Tư, 10 Tháng Năm, 2023 22:12

Di sản khập khiễng nếu chỉ biết ôm lấy chữ Hán !

 

Tiền nhân chúng ta nếu viết sách, làm thơ bằng chữ Hán (chúng ta đọc âm Hán - Việt, người Hoa đọc tiếng Hoa), người Hoa nhìn vào thơ sách chữ Hán là họ hiểu ráo trọi, hiểu ngay lập tức. Còn khi chúng ta viết chữ Nôm, người Hoa nhìn vào bản văn chữ Nôm của người Việt (bề mặt nhìn giống chữ Hán hết sức), người Hoa sẽ... khỏi hiểu luôn.

Vì sao?

Vì chữ Nôm ghi lại Nam âm (quốc âm) của người Việt chúng ta!

1. Đây, bn câu thơ m đầu truyn Kiu viết bng ch Nôm (ghi trong ngoc):

Trăm năm trong cõi người ta (𤾓 𢆥 𥪞 𡎝 𠊛 些)

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (𡦂才 𡦂 命 窖 𪜀 恄 饒)

Trải qua một cuộc bể dâu (𣦆 戈 没 局 𣷭 橷)

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (仍 調 𪿄 𧡊 麻 𤴬 疸 𢚸)

 

1a) Trong 28 ký tự của bốn câu thơ mở đầu, đã có đến 16 chữ Nôm KHÔNG CÓ trong Hán tự.

Đây là nhng ch do người Vit chế tác bng cách lp ghép 2-3 ch Hán dính chùm vi nhau thành mt, người Trung Hoa nhìn vào không đọc được, vì đâu có trong Hán tự mà đòi đọc.

16 chữ này đọc theo Nam âm (quốc âm, ghi bằng chữ in hoa):

𤾓 TRĂM, 𢆥 NĂM, 𥪞 TRONG, 𡎝 CÕI, 𠊛 NGƯỜI, 𡦂 CHỮ (ký tự này dùng 2 lần trong bốn câu thơ), 𪜀 LÀ, 恄 GHÉT, 𣦆 TRẢI, 𣷭 BỂ, 橷 DÂU, 𪿄 TRÔNG, 𧡊 THẤY, 𤴬 ĐAU, 𢚸 LÒNG.

1b) Có 10 chữ mượn nguyên dạng chữ Hán, nhưng nghĩa khác hẳn. Người Trung Hoa nhìn vào từng chữ tưởng hiểu, nhưng khi xem toàn câu, toàn bài thì không hiểu (vì đâu mang cái nghĩa trong chữ Hán):

窖 (“diếu”, nghĩa là sâu xa)=> đọc thành âm thuần Việt là “KHÉO” (trong “khéo là ghét nhau”);

饒 (“nhiêu” nghĩa là đầy đủ) => đọc âm thuần Việt là “NHAU” (trong “khéo là ghét nhau”);

局 (“cục” nghĩa là một bộ phận) => đọc là “CUỘC” (trong “một cuộc bể dâu”);

仍 (“nhưng” nghĩa là noi theo) => đọc thành “NHỮNG” (trong “những điều...”);

麻 (“ma” nghĩa là cây gai) => đọc thành âm thuần Việt “MÀ” (trong “mà đau đớn...”);

疸 (“đản”, nghĩa là một chứng bệnh ngoài da)=> đọc thành “ĐỚN” (trong “... đau đớn lòng”).

些 (“ta”, nghĩa là ít ỏi) => đọc thành âm “TA” và mang nghĩa trong “người ta”;

戈 (“qua”, nghĩa là cây mác) => đọc thành “QUA” với nghĩa khác (trong “trải qua”);

没 (“một”, nghĩa là chìm mất) => đọc “MỘT” với nghĩa khác (trong “trải qua một cuộc...”);

調 (“điu”, nghĩa là thay đổi, điều chỉnh”) => đọc “ĐIU” vói nghĩa khác (trong “những điều trông thấy”).

 

1c) Như vậy, chỉ còn vỏn vẹn 2 chữ: 才 (“tài”), 命 (“mệnh”) thì người Trung Hoa nhìn vào và hiểu đúng nghĩa vốn có của hai chữ này mà thôi.

 

2. Xưa có những người hô hào chỉ trở về chữ Hán nhưng lờ đi chữ Nôm, không biết đến chữ Nôm, xin mời họ đọc bốn câu thơ mở đầu Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm. Ắt họ sẽ y chang người Trung Hoa: chỉ đọc hiểu - đúng - nghĩa vỏn vẹn có 2 chữ “tài” và “mệnh” mà thôi.

Nghe họ hô hào “gìn giữ di sản”, nhưng chỉ cần giở danh tác Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm, họ không tài nào đọc được. Vy gìn gi di sn gì ni. Họ “gìn giữ di sản” kiểu nào khi chỉ chăm bẳm chữ Hán và không ngó ngàng đến chữ Nôm?

 

3. Làm cách nào mà nhng người nghiên cu đời nay ch biết ch Hán mà vn đọc được Truyn Kiu nguyên bn?

Nếu không nhờ công sức các vị tiền bối đã chuyển - dạng - ký - tự từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, lấy gì họ biết đọc được “Trăm năm trong cõi người ta...”?

Các giáo sĩ dòng Tên có công lập ra chữ Quốc ngữ, họ HỌC CHỮ NÔM, vì chỉ trong chữ Nôm mới có Nam âm (thuần Việt) và gồm luôn âm Hán - Việt, trong khi chữ Hán thì gạt bỏ Nam âm của tiếng Việt chúng ta.

 

Có chữ Quốc ngữ, mọi sự trở nên dễ dàng.

 

NGUYỄN CHƯƠNG

 

Ý kiến bạn đọc ()
Tin khác
Xem thêm