Trong số báo CGvDT 2176, chúng tôi có đề cập đến các bản điều trần của linh mục Gioakim Ðặng Ðức Tuấn. Tuần này, xin nói rõ thêm về nhân vật rất uyên bác này.
Nhắc đến linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn, phải nhìn lại bối cảnh lịch sử đất nước thời Nguyễn, chúng ta mới có thể hiểu được tài năng và vị trí của cha như thế nào.
Thời vua Tự Đức là thời cấm đạo “rát” nhất và cũng “thâm” nhất. Chỉ dụ “Phân sáp” năm 1859 là một “chiêu” cực độc đối với đạo “Da Tô”. Trước đó có chém giết đạo trưởng, tống ngục đạo hữu nhưng còn cộng đoàn Kitô hữu dù chỉ là những đoàn chiên bé nhỏ phiêu bạt khắp nơi, đức tin vẫn trụ được và tìm cơ hội vươn lên. Chỉ dụ này “xé nhỏ đàn chiên”, phá vỡ cơ cấu cộng đoàn Giáo hội, chỉ hai người Công giáo đọc kinh với nhau cũng không còn nữa - người Công giáo bị phân sáp vào các gia đình ngoại giáo và nghịch đạo để họ quản chế như chế độ nô lệ xưa. Họ phải lao động kiệt sức cho những ông bà chủ ngoại đạo và ghét đạo; không có một tí quyền lợi nào, còn thua kẻ ăn người ở, và thường xuyên bị ức hiếp. Các giáo sĩ còn sót lại cũng chẳng có nơi nương náu, có muốn thăm mục vụ để an ủi con chiên cũng chẳng vào được những nhà ngoại đạo có cả một đội ngũ do trương tuần đứng đầu kiểm soát.
Mộ phần của linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn |
Những tín hữu chỉ còn trông vào ơn Chúa và cam lòng chịu đựng để giữ vững đức tin. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và khắc nghiệt như thế, linh mục Gioankim Đặng Đức Tuấn bị bắt giam với danh nghĩa đạo trưởng, chỉ còn chờ chịu chém đầu… May thay, trong bị của tội đồ Đặng Đức Tuấn có bản điều trần bằng chữ Hán, quan kiểm tra đọc được, thấy hay, tấu lên vua Tự Đức, thế là số phận được thay đổi, vận may tới, đạo trưởng Đặng Đức Tuấn được trọng dụng, được sung vào phái bộ cụ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tới Gia Định để nghị hòa với Pháp. Linh mục Tuấn chỉ giữ vai trò thông ngôn, nhưng biết tài cao học rộng của ngài, hai cụ Phan - Lâm thường đàm đạo hỏi han như một vị cố vấn. Khi Pháp đòi quá nhiều, hai cụ hỏi: “Phan - Lâm đòi Tuấn hỏi ngay: Tàu Tây xin vậy Tuấn bày làm sao?”, linh mục Tuấn khẳng khái : “Hòa đặng thì ta hòa đi/ Bằng hòa chẳng đặng ta thì về ngay”. (Thuật tích Nước Việt Nam Vãn, câu 913-920).
Trong bàn hội nghị khi Pháp đòi sáu tỉnh Nam Bộ, hai cụ Phan - Lâm lại hỏi linh mục Tuấn: “Phan - Lâm đòi Tuấn hỏi han/ Tây xin nhiều quá tính bàn làm sao/ Tuấn rằng Quan lớn lượng cao/ Đòi bồi thì chịu, đừng giao tỉnh thành/ Ý tôi thời vậy đã đành/ Mặc lượng ông lớn quyền hành chủ trương”. (Thuật tích Nước Việt Nam Vãn : câu 961-968).
Lập trường chung thủy với đất nước của linh mục là không nhường đất, chỉ chịu bồi thường tiền thôi. Rủi cho đất nước ta thời kỳ bấn loạn, giặc giã miền Bắc nổi lên như nấm, ta không thể nào “Lưỡng đầu thọ địch”, quân Pháp xâm lăng thì xảo quyệt, lật lọng… Bí thế, hai cụ Phan - Lâm phải ký vào hòa ước Nhâm Tuất 1862 với phần thiệt hại về phía ta. Các cụ cũng kỳ vọng vào lời hứa của Pháp sẽ cho chuộc lại bằng tiền, nhưng sau phái bộ cụ Phan sang Pháp xin chuộc sáu tỉnh mà bất thành - Đất nước, vua tôi của ta lâm cảnh bi thương.
Tác phẩm “Thuật tích nước Việt Nam Vãn” (Hiện lưu giữ tại viện Hán Nôm Hà Nội) là một sử liệu vừa đạo vừa đời trong giai đoạn bi đát nhất của đất nước ta vào giữa và cuối thế kỷ 19. Sách gồm 55 trang, 1036 câu thơ, đa phần là “song thất lục bát và lục bát, chêm vào những bài “Thất ngôn bát cú”, có đoạn viết “Tứ tự” theo lối vè.
Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết
Trưởng ban Mục vụ Văn hóa TGP.TPHCM
Bình luận