Vừa qua, Bộ Tài chính đưa ra dự thảo Luật thuế tài sản, ở đó có đề xuất hai phương án thu thuế nhà ở có giá trị từ 700 triệu và 1 tỷ đồng với mức thuế 0,3-0,4% hằng năm. Lý do Bộ đưa ra là dựa trên các nước phát triển đã đánh thuế với ngôi nhà thứ hai của mỗi chủ sở hữu và cho rằng thu thuế này “nhằm đảm bảo sự công bằng” - mọi công dân đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Ngay sau khi dự thảo đưa ra, dư luận quan tâm, thậm chí lo lắng, bởi một khi nó được thông qua, sẽ trở thành gánh nặng với dân nghèo.
Điểm bất cập đầu tiên với dự thảo là không phân biệt được các mức thuế trên phân tầng giàu nghèo xã hội mà lại dựa vào mặt bằng thấp nhất để xác lập mức thuế. Với mức tính thuế từ 700 triệu đến 1 tỷ đồng, có thể nói tất cả những người dân nghèo đều phải đóng thuế. Trên thực tế, một căn hộ chung cư nơi thành phố với mức giá như vậy, chưa chắc người nghèo có thể mua được. Với họ, để có một căn hộ giá đó, hầu hết phải vay mượn, nợ lãi, tích cóp cả đời. Khi nợ vẫn còn, lãi ngân hàng vẫn phải trả, nay lại phải đóng thuế cho ngôi nhà mà mình vẫn đang nợ, tạo ra gánh nặng.
Tiếp theo, những căn cứ Bộ đưa ra để tính thuế là dựa vào các nước phát triển, điều này không phù hợp với Việt Nam, vì so với các nước như Anh, Singapore..., chúng ta đều thua họ về bình quân thu nhập và nhiều thành quả về kinh tế, xã hội. Bởi vậy, sẽ rất khập khiễng khi học theo cách thu thuế của nước giàu. Mặt khác, đối với những nước này, họ cũng chỉ đánh thuế tài sản vào những căn nhà sở hữu thứ 2, thứ 3... Dự thảo của ta đánh thuế vào căn nhà sở hữu đầu tiên và miễn thuế với nhà thứ 2. Có nghĩa là tất cả mọi người đều phải nộp thuế. Những người nghèo chỉ có thể sở hữu một ngôi nhà, ít khi có ngôi nhà thứ 2, nên dự thảo tưởng chừng nhân văn nhưng xem ra lại tạo cơ hội cho người giàu, bởi họ chỉ phải đóng thuế cho căn nhà thứ nhất và được miễn cho các căn nhà khác. Như vậy sắc thuế có phải là vì người nghèo hay là tận thu với người nghèo?
Một bất cập khác là dân ta hiện nay chịu quá nhiều loại thuế, phí liên quan đến nhà như thuế nhà ở, thuế đất, thuế giá trị gia tăng..., nay thêm một sắc thuế nữa thì liệu các loại thuế kia có được bãi bỏ, hay lại lâm vào tình trạng, thuế chồng thuế, phí chồng phí?
Đành rằng thu thuế là nhằm ổn định ngân sách quốc gia, phát triển đất nước, nhưng mỗi khi đưa ra dự thảo, các đơn vị cần căn cứ vào thực tiễn đất nước chứ không phải ngồi trong bàn giấy, nhìn sang nước giàu để tưởng tượng ra những điều tưởng chừng mới mẻ, nhưng nếu có áp dụng, chỉ tạo thêm gánh nặng cho dân. Thuế và lòng dân là một phạm trù nhạy cảm. Một sắc thuế đưa ra phải được dân chúng chấp nhận và sẵn lòng. Ngược lại, một dự thảo gặp phải sự phản ứng của đám đông, cũng có nghĩa là nó chưa đáp ứng được thực tiễn và đi vào lòng người. Phải chăng với một vài lĩnh vực, năng lực làm luật của ta đôi khi còn lý thuyết, sách vở, chưa đáp ứng được yêu cầu quốc gia cũng như sự thuyết phục đối với công chúng, nhất là người nghèo?
Ngô Quốc Ðông
Bình luận