Trong những năm tháng còn khói súng loạn lạc, cảnh bắt bớ tù đày diễn ra khắp nơi, có một linh mục mỗi ngày lặng lẽ bước qua từng cánh cửa phòng giam để trao đi thuốc men, lời kinh và tình người. Ðó là cha Ðaminh Trần Xuân Thảo, nguyên chánh xứ Hà Nội - Biên Hòa, khi ấy đang làm tuyên úy nhà tù Tân Hiệp. Gặp cha dịp chuẩn bị kỷ niệm 50 năm đất nước thống nhất, cha đã kể lại những ký ức chưa phai về việc tiếp tế thuốc cho tù nhân chính trị, về bức tượng Ðức Mẹ Fatima được rước ra khỏi trại giam giữa thời khắc chiến tranh sắp kết thúc, và hơn hết là một tinh thần mục tử luôn đứng về phía những con người đau khổ, bị lãng quên.
CGvDT: Được biết thời điểm 1975 cha làm tuyên úy cho nhà tù Tân Hiệp? Câu chuyện này, công việc này được bắt đầu như thế nào, thưa cha?
- Linh mục Đaminh Trần Xuân Thảo: Sau khi chịu chức năm 1968, tôi được Đức cha Giuse Lê Văn Ấn - Giám mục GP Xuân Lộc lúc bấy giờ - sai về làm phó xứ Thái Hiệp, làm việc chung với cha chánh xứ Augustinô Phạm Khắc Nghiễm. Tới năm 1970, tôi được cử lo thêm mục vụ cho một số địa điểm đặc biệt. Cụ thể là được phân công đi mục vụ mỗi tuần ở bốn chỗ: một là Trung tâm cải huấn Biên Hòa - nơi giam giữ tù nhân dân sự; hai là Trung tâm cải huấn Tân Hiệp - nơi giam giữ tù nhân chính trị; ba là trại tù binh chiến tranh, giam giữ những người cộng sản chờ trao trả tù binh sau Hiệp định Paris; và cuối cùng là Dưỡng trí viện Biên Hòa. Trong bốn nơi thì Tân Hiệp là trại giam tù chính trị khá lớn, chỉ sau Côn Đảo, với số phạm nhân có khi lên tới năm, sáu ngàn người. Tù nhân ở đó có những người làm cách mạng, có những trí thức, có người Công giáo, có cả văn nghệ sĩ như nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu. Ba của linh mục Huỳnh Công Minh cũng bị giam giữ ở đây.
Mỗi tuần, tôi được phép của chính quyền thời đó cho vào dâng lễ, lo phần thiêng liêng cho các anh em tù nhân Công giáo; những lúc này, tôi cũng tranh thủ thăm viếng và ủy lạo chung cho mọi người.
Nghe kể cha cũng thường xuyên tiếp tế thuốc men cho tù nhân chính trị?
- Như tôi đã nói, trại Tân Hiệp giam khá đông tù nhân chính trị. Họ ở trong tù thiếu thốn trăm bề nên thấy thương lắm. Vậy nên mỗi khi dâng lễ xong, tôi lại đi vòng vòng các phòng giam thăm hỏi, nói ai bệnh gì thì ghi ra mảnh giấy, tôi đem ra ngoài mua thuốc gởi vô tặng. Ngoài chuyện thuốc men, tôi còn xin các nữ tu Dòng Đa Minh Tam Hiệp gởi vải vóc, chỉ thêu vào cho tù nhân làm đồ thêu tay. Mấy anh em trong đó siêng năng, khéo tay lắm. Họ thêu khăn, áo, tranh… rồi mình lấy đem ra bán giùm, gom tiền gởi vô lại cho họ trang trải.
Mỗi dịp lễ Tết, Giáng Sinh, tôi cũng được nơi này nơi kia trong Giáo hội nhờ đem quà vô phát cho tù nhân. Mỗi phần quà có xà bông, kem đánh răng, khăn mặt, quần áo... Có lần phát đến 6-7 ngàn phần. Họ cảm động lắm, ôm quà mà nước mắt rơi. Tôi thì nghĩ đơn giản: mình giúp được gì cho họ là mình làm.
Cứ như vậy, ngoài chuyện mục vụ, nhiều năm liền tôi vẫn giúp anh em tù nhân những nhu cầu cơ bản.

Những lý do gì đưa cha đến những chọn lựa như vừa kể trên?
- Thực ra tôi cũng không nghĩ gì nhiều đâu. Chỉ xác tín một điều: họ đang khổ, đang bị bỏ rơi, mà mình là linh mục thì không thể làm ngơ được. Tôi phải thực hiện tinh thần yêu thương mọi người như Chúa Giêsu truyền dạy; trong riêng tư, phải nói rằng tôi cũng có những tình cảm nhất định với những người bị tù đày vì lý tưởng chọn lựa. Tôi lúc đó chỉ có một ước mong duy nhất là làm sao chiến tranh sớm chấm dứt.
Chúng con cũng từng nghe nói về một bức tượng Đức Mẹ được cha rước từ nhà tù về giáo xứ Thái Hiệp?
- Đây cũng là một câu chuyện đặc biệt. Năm 1972, Đức Khâm Sứ Tòa Thánh gọi tôi đến, trao cho tôi món quà vô cùng quý giá là một bức tượng Đức Mẹ Fatima, được Đức Thánh Cha Phaolô VI gởi tặng cho những tù nhân chính trị tại Việt Nam. Tượng Đức Mẹ này là biểu trưng của sự an ủi, hy vọng và chở che trong những thời khắc gian nguy. Tôi nhớ lúc đó tượng được đặt tại gian nhà để dâng lễ trong trại giam Tân Hiệp, nơi tôi thường xuyên đến làm lễ cho các tù nhân Công giáo.
Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, khi chiến tranh sắp sửa kết thúc, tôi vào thăm trại giam và thấy tình hình căng thẳng hơn bao giờ hết. Tôi quyết định rước tượng Đức Mẹ từ nhà nguyện trong trại giam Tân Hiệp về giáo xứ mình đang phục vụ. Ngoài ra, lúc này binh sĩ trong trại đã rút, tôi trao đổi và đề nghị những người còn lại mở cửa cho những người tù ra ngoài, rồi đón một số tù nhân về giáo xứ để họ ở tạm ba ngày, trong khi tình hình chiến sự còn căng thẳng. Sau đó họ đã lên đường về phía Trảng Bom, hai ngày sau thì quân Giải phóng vào và chiến tranh kết thúc. Tôi xem đây là cách thể hiện tình bác ái Kitô giáo, tình yêu thương vô bờ bến của Giáo hội, luôn chăm sóc và bảo vệ những người gặp khó khăn.

Xin cảm ơn cha đã chia sẻ những kỷ niệm khó quên!
HOÀNG QUÂN thực hiện
Bình luận