NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA SỰ HỘI NHẬP
Hội nhập văn hóa qua kiến trúc, mỹ thuật, âm nhạc
+ Hội nhập văn hóa qua kiến trúc
Cùng với việc xuất hiện hàng loạt nhà thờ kiến trúc theo phong cách Âu châu (người dân quen gọi là nhà thờ Tây) là lối kiến trúc theo phong cách Á Đông (người dân quen gọi là nhà thờ Nam). Tuy nhiên, nhà thờ Nam chia làm hai loại. Loại thuần Nam: mang đậm phong cách Á Đông; loại vỏ Tây, ruột Nam, bề ngoài mang dáng dấp nhà thờ Tây, với tháp chuông nhọn, cao vút, bên trong (ruột) theo phong cách Á Đông với các hàng cột, rui, mè, côn... Tiêu biểu cho phong cách nhà thờ Nam thể hiện rõ nét sự hội nhập văn hóa là khu quần thể kiến trúc Nhà thờ lớn Phát Diệm (Ninh Bình).
Nhà thờ kiến trúc dựa vào phong thủy: trước ao (thủy) sau núi (sơn). Trục chính của quần thể theo hướng Bắc Nam. Hướng Nam là hướng của Thánh nhân. “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”. Bậc Thánh nhân quay mặt về phía Nam nghe thiên hạ giãi bày. Phương đình có dáng dấp như Tam quan với 3 cửa. Cửa sổ hai bên chấn song tạc hình cây trúc. Trúc theo quan niệm Nho giáo thể hiện cho chí khí người quân tử. Phương đình xây dựng ba tầng lầu. Lầu hai đặt trống, lầu ba đặt chuông. Đây là quả chuông Nam do người Công giáo đúc và là quả chuông Nam to nhất của Công giáo ở Việt Nam. Âm vang tiếng chuông trước, trong và sau giờ lễ hằng ngày nơi quần thể thánh đường kiến trúc theo phong cách Á Đông đượm tính tâm linh Việt. Phương Đình, nhà thờ Chánh tòa (dâng kính Đức Mẹ Mân Côi), 4 nhà thờ cạnh, nhà thờ Trái Tim Đức Mẹ (quen gọi là Nhà thờ đá - nhà thờ làm bằng đá) đều kiến trúc theo phong cách Á Đông, mái cong, ngói mũi hài, 6 hàng cột. Vì kèo kết cấu theo kiểu chồng rường giá chiêng. Nhà thờ Chánh tòa dọc hai bên hông là những cánh cửa bức bàn, những ngày lễ trọng, khi trong nhà thờ kín chỗ, những cánh cửa được mở cho người đến dự lễ đứng bên ngoài sân “lễ vọng”. Đối diện với cửa ra vào là cung thánh. Cuối cùng cung thánh là vách gỗ, trên đó có những ô được thiết kế nửa chìm, nửa nổi, sơn son thếp vàng, ở đó là ảnh tượng Đức Mẹ bế Chúa Hài Đồng, bên trên là tranh 6 thánh tử đạo và tranh Chúa Giêsu. Kiến trúc nhà thờ Chánh tòa tựa như ngôi đình làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Với lối kiến trúc nhà thờ Nam, người Công giáo góp phần gìn giữ bảo lưu một loại hình kiến trúc tôn giáo truyền thống. Đó còn là sự kế thừa, hội nhập nét đẹp trong kiến trúc của Công giáo ở Việt Nam.
![]() |
Đức Mẹ Maria được vẽ theo hình tượng người phụ nữ Việt Nam, mặc áo đại trào, đầu đội khăn vành duyên dáng và nhân hậu. Sự đột phá này tạo cho tín hữu Công giáo người Việt gần gũi với Đức Mẹ Maria, với Thiên Chúa. |
+ Hội nhập văn hóa qua mỹ thuật
Mỹ thuật Công giáo ở Việt Nam khá đa dạng với nhiều thể loại.
Điêu khắc thể hiện chủ yếu ở nhà thờ Nam với lối trang trí hoa lá cách điệu, tứ quý, trúc hóa long, có thể chạm bong trên gỗ, đá hoặc đắp nổi. Đó là sự kế thừa điêu khắc truyền thống. Bức điêu khắc khá tiêu biểu cần phải kể đến là bức chạm trên cửa chính nhà thờ lớn Phát Diệm. Trên những phiến đá xanh dài, người ta chạm lộng bụi hoa Mân Côi (hoa hồng) từ giữa tỏa ra hai bên. 17 thiên thần ẩn hiện trong nách lá, cánh hoa. Dây hoa, cánh hoa tuy chạm trên đá nhưng mềm mại với những nét chạm khắc tỉ mỉ, khéo léo từng chi tiết nhỏ. Các thiên thần mang gương mặt nhân lành. Phía trên 5 lối ra vào của nhà thờ lớn Phát Diệm chạm nổi 15 bức phù điêu ghi lại các mầu nhiệm Mân Côi (5 sự Mừng, 5 sự Thương, 5 sự Vui). Quanh các cửa ra vào còn nhiều bức chạm mai, lan, cúc, trúc (tứ quý).
Bàn thờ nơi cung thánh nhà thờ Trái Tim Đức Mẹ (nhà thờ đá) mặt phía trước chạm khu vườn bên trong có giếng nước niêm phong, cổng khu vườn đóng cài khóa biểu trưng cho sự trinh nguyên của Đức Mẹ. Một phong cách sáng tạo của người Công giáo Việt Nam dựa theo ca dao, tục ngữ dân gian: “Mận hỏi thì Đào xin thưa/Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào?”. Bên hông bàn thờ chạm bụi sen có gương sen, lá sen già, lá sen non tượng trưng cho vòng sinh tử, cũng là tượng trưng cho sự Phục Sinh của Đức Chúa Giêsu. Sen, một loại hoa biểu trưng cho thanh cao, tinh khiết tưởng chỉ có ở chùa Phật giáo nhưng nơi nhà thờ Công giáo, sen được sử dụng với một nội dung Công giáo nhưng vẫn đậm đà tính dân tộc.
Về tượng tròn ở nhà thờ Công giáo, đáng lưu ý là bốn pho tượng thánh sử Phúc Âm: Matthêu, Máccô, Luca và Gioan đắp ở bốn tháp góc tòa Phương Đình khu quần thể thánh đường Phát Diệm. Bốn pho tượng có tầm thước to hơn người thực, ngồi ở tư thế vững chãi, hai tay đặt lên hai đầu gối theo thế ngồi dáng đế vương. Nét mặt bốn vị theo gương mặt Á Đông, thánh thiện, thùy tai dài, dáng bình thản, tự tại nhìn thẳng về phía xa xăm. Y phục đằng sau là hình đằng vân.
Trong nhà thờ Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ còn lưu giữ nhiều loại kiệu vàng. Ngoại trừ những cỗ kiệu do làng giáo mua ở làng lương, còn lại là kiệu do làng giáo đóng. Kiệu vàng làng giáo có loại y theo mẫu kiệu làng lương, có loại được sáng tạo như khán kiệu làm bằng bốn trụ tròn, có hai đường chéo nối các trụ. Nơi hai đường chéo cắt nhau là hình thập giá. Hoa văn trang trí chạm bong thường là hoa sen, hoa cúc. Thân kiệu thay vì là đầu rồng là hình hoa lá cách điệu tựa như đầu rồng. Đó là thể hiện tài hoa và sáng tạo của người Việt Công giáo.
Nhà thờ Công giáo mô phỏng bát bửu của đình, đền để tạo bát bửu cho riêng mình dùng trong đi kiệu vào những dịp lễ trọng và một số lễ hội khác. Hình dáng bề ngoài chúng giống như bát bửu của làng lương nhưng lại có nội dung Công giáo. Trên đó được khắc những chữ Hán: Phương - Danh - Thánh - Mẫu (Danh thơm Thánh Mẫu) thay vì chữ Tĩnh - Túc hoặc Hồi - Tỵ. Có thể là hình chim bồ câu đang dùng thịt của mình nuôi đàn con, ấy là mô phỏng sự tích Chúa Giêsu dùng thịt và máu của mình qua hình tượng bánh và rượu để nuôi lòng đạo của tín hữu (ở xứ Đông Xuyên - Hải Phòng). Cũng có khi là hình con cò đang bay và hình con cua đang bò và được giải thích cò bay trên cao là dương, cua bò dưới đất là âm, thể hiện âm (đất) dương (trời) cũng có nghĩa là vũ trụ. Nhưng toát lên là quyền uy Thiên Chúa tạo dựng trời đất và muôn vật (ở Bạch Bát - Yên Mô - Ninh Bình). Vậy là người Công giáo thông qua những con vật rất gần gũi để diễn tả những tín lý Công giáo. Thật là một sự diễn tả vừa mang tính dân gian lại giàu tính bác học, có lẽ chỉ có ở người Công giáo Việt Nam.
Hội họa. Tín hữu Công giáo rất trân trọng tranh ảnh thánh. Trước khi treo để thờ hoặc chiêm ngắm, họ mang đến nhà thờ để cha xứ làm phép. Khi cũ, hỏng họ thường đem đốt vào dịp lễ Tro, mà không dùng vào việc trần thế. Trải qua thời gian, có một số họa sĩ đã Việt hóa hình ảnh Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ Maria được vẽ theo hình tượng người phụ nữ Việt Nam, mặc áo đại trào, đầu đội khăn vành duyên dáng và nhân hậu. Nếu Đức Mẹ Maria bế Chúa Hài Đồng thì hình ảnh Chúa Hài Đồng là hình ảnh trẻ con Việt Nam. Có thể thấy qua tranh của Nam Phong (Phát Diệm), của họa sĩ Lê Văn Đệ... Sự đột phá này tạo cho tín hữu Công giáo người Việt gần gũi với Đức Mẹ Maria, với Thiên Chúa.
+ Hội nhập văn hóa qua âm nhạc. Một số nhạc sĩ Việt Nam nhận thấy hát thánh lễ bằng tiếng Latinh hạn chế rất nhiều đến việc tiếp thu, cảm nhận của tín hữu đã tiến hành dịch ra lời Việt. Dần dần dựa vào điệu nhạc ngoại quốc họ viết lời Việt, tạo nên bài hát Việt. Người đi đầu là linh mục Vượng ở thành phố Nam Định. Song không dừng ở đó, linh mục còn lấy cả nhạc điệu cổ truyền từ lưu thủy đến hành vân, từ điệu Nam Ai đến hò... vào trong sáng tác. Đặc biệt, sự xuất hiện của nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh vởi sự cho ra mắt Cung thánh tổng hợp tân biên, gồm 174 bài, trong đó có một số bài mang âm hưởng dân ca[1].
Ngoài ra trong tháng Năm - tháng hoa kính Đức Mẹ nhiều xứ họ đạo cải biên các làn điệu dân ca đưa lời vãn vào hát tạo nên những hình thức diễn xướng đậm tính dân ca các vùng miền.
*
Truyền bá vào Việt Nam với văn hóa của Công giáo trước Công đồng Vatican II, về mặt quan phương là sự nhập cảng cứng nhắc, một sự áp đặt văn hóa và đối lập văn hóa.
Trái ngược với phương diện quan phương là phương diện phi quan phương về hội nhập văn hóa Công giáo Việt Nam. Hay nói một cách khác hội nhập văn hóa Công giáo ở Việt Nam không đi theo chiều kích từ trên xuống (có đường hướng của Giáo hội) mà đi theo chiều kích từ dưới lên (tự phát của tín hữu). Sở dĩ có tình trạng này, theo chúng tôi cần thiết phải nhìn từ chiều cạnh cơ tầng văn hóa Việt. Người dân Việt “trước khi trở thành người Công giáo họ đã là người Việt Nam”. Họ đón nhận “đạo Chúa” bằng tâm thức văn hóa truyền thống của người Việt. Trong từng chừng mực khác nhau mỗi tín hữu, mỗi cộng đồng (giáo họ, giáo xứ) cố gắng nhào nặn tạo nên sự có lý hoặc hợp lý với truyền thống văn hóa Việt. Ví dụ lễ Thánh Quan thầy xứ đạo được tổ chức như một hội làng. Thánh Quan thầy xứ đạo được xem là Thành Hoàng làng; đặt niềm tin chủ đạo vào Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng tâm thức đa thần vẫn tiềm ẩn sâu thẳm trong nguồn mạch tâm linh của mỗi người. Chẳng hạn tín hữu tôn quyền Đức Maria hay là chức nghiệp hóa một số vị Thánh thông công “quan phòng” một số lĩnh vực của đời sống xã hội và văn hóa.
Vì là diễn ra theo hình thức phi quan phương nên với mỗi người, mỗi xứ, mỗi họ đạo. làng Công giáo có sự hội nhập khác nhau. Về hình thức tuy có phong phú, đa dạng vẫn là “ngoại ngạch”, chỉ là kế thừa mang tính tự phát, ít có sự sáng tạo. Những hình thức ấy chưa có sự thấm nhập - nhập cội (hay nhập thể) vào cơ tầng văn hóa Việt chưa được bao nhiêu. Đặc biệt là chúng chưa đủ nội lực để tạo nên một nền văn hóa Kitô giáo ở Việt Nam như văn hóa Phật giáo hay văn hóa Nho giáo.
Phải đợi đến sau Công đồng Vatican II qua đường hướng Canh tân và Nhập thế, đặc biệt là từ sau Thư Chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam, văn hóa Công giáo một mặt quan trọng đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ với văn hóa Việt Nam, mặt khác tham gia nhiều hơn, có hiệu quả hơn vào công cuộc phát triển bền vững đất nước.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Nguyễn Khắc Xuyên, Tiến trình thánh nhạc Việt Nam qua nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh, UBĐKCG Thành phố Hồ Chí Minh, 3/1992, từ tr. 236-253.
Bình luận