Gặp tôi tại khuôn viên trường đại học Khoa học Tự nhiên - ÐHQG TPHCM, anh Nguyễn Trí Hiếu, 45 tuổi, giảng viên khoa Hóa học xuất hiện với nụ cười phúc hậu, hiền hòa. Vẻ ngoài anh giản dị, chiếc áo polo xám, quần kaki tối màu, balo đeo nửa bên vai. Anh Hiếu là tiến sĩ, giảng dạy tại trường đại học này đã hơn hai mươi năm. Nhưng có một “công việc” khác mà anh âm thầm gắn bó cũng lâu không kém ở giáo xứ Tam Hà (hạt Thủ Ðức, TGP TPHCM), đó là giữa lịch giảng dạy dày đặc ở giảng đường, Chúa nhật vẫn là ngày anh dành trọn cho lớp giáo lý ở giáo xứ nhà.

Một ơn gọi song hành
Hành trình trở thành giáo lý viên của anh rất tự nhiên, bắt nguồn từ những mong ước tốt đẹp. Suốt quãng đường 12 năm học giáo lý phổ thông, từng gương mặt giáo lý viên đi qua tuổi thơ đã in dấu trong tâm thức cậu học trò nhỏ. “Hồi đó nhìn các anh chị, tôi đã nghĩ sau này mình cũng muốn được trở thành giáo lý viên, đứng lớp dạy giáo lý cho các em nhỏ”, anh tâm tình. Rồi Nguyễn Trí Hiếu, song song với việc học đại học, đã tham gia lớp dự bị, đào tạo giáo lý viên tại giáo xứ.
Tốt nghiệp năm 2002, Hiếu sang Đan Mạch học một năm, sau thời gian đó anh trở về quê nhà, chính thức tuyên hứa, trở thành giáo lý viên năm 2003. Từ ngày đó đến nay, anh vẫn gắn bó với lớp giáo lý mỗi tuần, dạy đủ các lớp, từ Thêm Sức, Bao Đồng, Vào Đời, đến các lớp Dự bị, đào tạo giáo lý viên tương lai. Anh cảm nghiệm: “Tôi nghĩ việc dạy giáo lý không phải chỉ vì yêu thích, mà là một ơn riêng. Mình được mời gọi thì mình nên đáp lại”. Vì thực tế hiện nay có rất nhiều bạn trẻ sau khi học hết chương trình, lãnh nhận đủ các Bí tích thì dừng lại, xem như đã xong bổn phận. “Không có nhiều người nghĩ tới chuyện kế thừa. Nhưng nếu ai cũng chọn ưu tiên việc cá nhân, thì lấy đâu người dạy cho các em nhỏ? Giáo dục đức tin không thể để đứt gãy chỉ vì không có thầy dạy” - anh Hiếu trăn trở.
Anh không bao giờ coi dạy giáo lý là một “công việc phụ”, bởi với anh, đó là một phần cốt lõi của cuộc sống. Nếu giảng đường truyền đạt tri thức, thì lớp giáo lý vun đắp đức tin. Ở trường, anh dạy sinh viên kiến thức; nhưng với thiếu nhi, anh hướng dẫn tâm hồn. “Với trẻ nhỏ, mình không chỉ mong các em hiểu bài, mà còn mong ước chúng biết sống được điều đã hiểu, đó mới là quan trọng”, anh bày tỏ nỗi ưu tư. Một bài giáo lý không chỉ kể chuyện phép lạ, mà phải giúp trẻ sống tử tế hơn, yêu thương bạn bè, hiếu thảo với cha mẹ. Dạy giáo lý, theo anh, khó hơn nhiều so với giảng đường đại học, bởi khoảng cách giữa kiến thức và niềm tin luôn là thách thức lớn.
Anh chia sẻ rằng mỗi bài giáo lý đều được anh “ngẫm” cả tuần. Ý tưởng có thể bất chợt đến lúc trên đường về nhà, đôi khi trong một đoạn Tin Mừng, hay từ những câu chuyện của các bạn sinh viên. “Mình phải có tâm tình trước, rồi Lời Chúa từ từ chạm tới mình. Có ý nào chạm được mình thì giữ lại, đào sâu, rồi tìm cách truyền đạt sao cho gần gũi”, anh kể về “quy trình” soạn giáo án của mình. Ở xứ đạo, mỗi lớp giáo lý thường có hai người phụ trách, nên nếu tuần nào bận, vẫn có người dạy thay. Nhưng anh hiếm khi vắng mặt.
Hiếu tâm sự sau khi học xong, cũng từng có lúc băn khoăn về hướng đi. Cũng đã thử phỏng vấn tìm việc, nhưng công việc không như mong đợi, nên anh chọn ở lại trường làm công tác học vụ, rồi dần dần gắn bó. Chính môi trường đại học, nơi anh gặp hàng trăm sinh viên mỗi khóa, lại trở thành nơi anh sống đức tin một cách tự nhiên nhất. Trong những cuộc trò chuyện riêng hoặc ở những giờ hướng dẫn nghiên cứu, anh mang vào đó cái nhìn nhân hậu, nâng đỡ, ủi an. Anh thường nói với sinh viên: “Dù cuộc sống có khó đến mấy, chỉ cần các em tin vào những điều tốt đẹp, thì sẽ vượt qua”. Với thiếu nhi cũng vậy, mỗi tuần tỉ tê đôi ba câu, rồi “mưa dầm thấm lâu”, dần thay đổi.

Người thầy giữ lửa
Câu chuyện chuyển sang những năm tháng học Tiến sĩ ở nước ngoài, từ năm 2011 đến 2015. Hiếu sống tại một thành phố nhỏ ở nước Đức. Là nghiên cứu sinh, anh phải sử dụng gần như hoàn toàn tiếng Đức trong sinh hoạt và học thuật. Tiếng Đức lại không phải ngôn ngữ anh rành rẽ, trong khi người dân ở đó lại thường nói giọng địa phương khá khó nghe. Nhưng cái khó nhất là về mặt tinh thần, không có cộng đoàn người Việt, không có ai đồng hành thiêng liêng, nhà thờ gần chỗ anh sống chỉ vỏn vẹn mười mấy người đi lễ, chủ yếu là người cao tuổi.
Đối với một người từng là giáo lý viên, từng đứng lớp truyền lửa đức tin suốt bao năm, thì sự trống trải ấy như hút sạch gốc rễ, nền tảng nhà đạo. Có lúc, anh chơi vơi, thậm chí muốn rời xa nhà thờ. Phải đến năm cuối, trong một dịp tình cờ, anh mới biết được một cộng đoàn người Việt tổ chức sinh hoạt chung vài tháng một lần. Ngày đầu tiên dự lễ cùng, đọc kinh bằng tiếng mẹ đẻ, nghe bài giảng bằng ngôn ngữ quen thuộc, anh vui mừng: “Tôi cảm giác mình được hà hơi trở lại. Lúc đó thầm hứa với Chúa, khi về Việt Nam, tôi sẽ tiếp tục dạy giáo lý”.
Rồi cũng có nhiều giai đoạn anh từng nghĩ tới việc ngừng dạy giáo lý. Đó là những lúc đời sống chồng chất áp lực, công việc ở trường chiếm nhiều thời gian, gia đình có cha già cần chăm sóc, bạn bè rủ rê vui chơi, hay đôi khi thấy lòng mình cạn kiệt. Nhưng may mắn thay, sau đó thì tinh thần của người giáo lý viên được sốc lại. Giáo xứ anh luôn có những buổi tĩnh tâm hằng tháng cho giáo lý viên, cũng là lúc anh được chiêm niệm, nghe và đào sâu Lời Chúa qua cha linh hướng, qua các sơ. “Ngọn lửa không thể cháy mãi nếu không được vun đắp. Mình phải chủ động duy trì nó. Có những người đã từng rất hăng hái, rồi dần nguội lạnh, là vì không còn thời gian cho thánh lễ, cầu nguyện, không còn nuôi đời sống thiêng liêng, rồi lửa tắt lúc nào không hay”, anh trải lòng. Anh luôn xác tín: “Chúa đã gọi mình thì sẽ không bỏ rơi mình”.
Trong 22 năm dạy giáo lý, có vô số kỷ niệm. Có những lứa học trò từng phá phách, nói không nghe, làm anh nhiều lần nản lòng. Khi ấy anh chọn cách làm bạn, trò chuyện từng chút, bền bỉ. Rồi những đứa bé ấy dần ngoan, thậm chí sau có người trở thành giáo lý viên. Hiếu cũng không nhận công trạng gì, chỉ nói nhờ ơn Chúa biến đổi, phần anh chỉ đồng hành và làm bạn với các em. Thời gian rảnh anh còn dẫn học trò đi nhiều nơi, như tham quan nhà thờ Đức Bà; đến thăm, tìm hiểu các dòng tu; tổ chức những buổi cắm trại nho nhỏ... Những chuyến đi không cầu kỳ, nhưng luôn có niềm vui. Rồi từng lứa thiếu nhi lớn lên, anh tiếp tục đồng hành trong lớp dự bị giáo lý viên, truyền lại những nhiệt huyết mà mình từng nhận được.
Anh cho rằng, giáo lý viên không phải là những người hoàn hảo trọn vẹn. Nhưng điều cần có là một đời sống nội tâm đủ chiều sâu, để gắn kết thật với Chúa, rồi từ đó mới giúp thiếu nhi dễ dàng gặp gỡ Ngài hơn. Rồi anh cười, như đang gởi gắm nhiều ưu tư với lớp đàn em: “Đừng tiếc gì với Chúa cả. Mình làm gì cho Chúa, Chúa biết hết. Và Chúa không trả vừa đâu, Ngài sẽ trả… dằn, lắc, đổ cho đầy vạt áo”.
Anh Thư
Bình luận