Bữa ăn trong các dòng tu nam nữ có gì khác so với ngoài đời? Thực ra, chúng rất đời thường mà cũng có nhiều điều thú vị, dễ thương đến bất ngờ…

“Vị quê” trong những món ăn
Là người con của mảnh đất Yên Thành, tỉnh Nghệ An, thầy Antôn Nguyễn Văn Phúc, tu sĩ dòng Đức Mẹ Lên Trời, trong hành trang nhập dòng đã đem theo những món ăn quê mẹ nấu vào các bữa ăn được phân công nấu trong dòng, trong đó có món tép tươi xào dưa chua. Nhớ khi còn ở nhà, những lúc mẹ chao rổ ngoài sông cả tiếng đồng hồ mới được mớ tép tươi rói đem về xào với những cọng dưa chua thơm lừng cũng do tay mẹ muối. Thầy thường nấu món tép xào quen thuộc này, cùng với các món cá kho, khoai, bắp luộc đậm vị đồng quê, vào mỗi phiên trực bếp trong cộng đoàn.
Bữa ăn ở các nhà dòng cũng đơn sơ như phong cách quen thuộc của những nhà tu hành. Thầy Phúc cho biết, mâm cơm thường ngày bình dị với 3 món: mặn, xào (hoặc luộc) và canh. Khi nhà có khách mới thêm thắt đôi chút. Thể hiện sự bình đẳng, yêu thương, các cha cũng như các thầy đều luân phiên phụ trách mỗi người trực bếp một bữa.
Xuất thân từ vùng thôn quê ruộng đồng, cha Giuse Bùi Vũ Quang, thuộc dòng Thừa Sai Thánh Tâm tỉnh dòng Úc châu cũng có “dấu ấn” qua những món ăn đặc trưng đậm chất vùng miền như canh cua rau đay, cà pháo, mắm tôm; canh bầu bí; cá khô sốt cà,... Tập vào bếp khi còn là cậu bé đang ở độ tuổi tiểu học, vào những năm 1984-1985, lúc cha mẹ đi làm đồng, cậu Quang được “giao nhiệm vụ” ở nhà nấu cơm, nhiều lần sơ ý để cháy cả chiếc rế tre lót nồi. Vụng dại thiếu thời cũng qua. Khi vào đại học, cậu cũng tự nấu nướng nên việc bếp núc ngày thành thạo, và thật thú vị khi nhà dòng cho phép“ai biết nấu sao cứ nấu vậy, anh em sẽ dần thích ứng”. Bởi vậy, lúc nào trên bàn ăn có món canh chua đỏ ớt thì biết là do người Quảng Trị làm bếp, món cánh gà chiên nước mắm của người Sài Gòn, món cá kho ngọt lừ là biết ngay người quê miền Tây… Trong dòng, hầu như các tu sĩ đã tập được thói quen ngon miệng với mọi phong cách ẩm thực vùng miền.

Với phương cách “tập dùng đủ”, nên với chi phí 50 ngàn đồng cho mỗi khẩu phần ăn trong một ngày, các thầy trong dòng Thừa Sai Thánh Tâm cũng chủ động gói gém chọn mua những thực phẩm giá rẻ, trái cây, rau củ lề đường, có thể đã héo chút nhưng vẫn còn dùng được và cũng là mua giúp cho người bán. Khác với các dòng tu nam nữ thường dùng bữa theo giờ giấc quy củ, dòng Thừa Sai Thánh Tâm linh động hơn. Học xong lúc 11 giờ, về đến nhà 15 phút sau đó mới bắt đầu nấu nướng, nên bữa trưa thường vào lúc 12 giờ với món mặn và rau củ đơn giản. Thỉnh thoảng, thực đơn trở nên phong phú khi có giáo dân biếu tặng thêm thực phẩm, rau xanh. Số hiện kim dôi dư từ tiết kiệm chi phí đi chợ hằng ngày được dòng dùng nuôi heo đất để chăm lo việc bác ái thiện nguyện mùa chay, hoặc cùng với địa phương trao quà cho người cao niên, neo đơn, già yếu…
Ấm áp giờ cơm cộng đoàn
Ở cộng đoàn nhà mẹ của dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang, trong rất nhiều năm trước đây, trên mâm cơm thường có món ăn từ rau do các sơ tự trồng, có cơm từ hạt gạo tự canh tác. Thời công nghiệp hóa, chuyên chăm cho công tác mục vụ về giáo dục mầm non, y tế, bác ái…, bếp ăn về sau cũng có nhiều thay đổi, nhưng bầu khí thân tình, vui tươi vẫn được duy trì, lâu bền. Là bếp trưởng trong 3-4 năm qua, sơ Châu Hà chủ trì những bữa ăn phục vụ 200 khẩu phần trong sự linh hoạt. Do biết lái xe, nên việc đi chợ mỗi ngày của sơ cũng trở nên đơn giản hơn: Chỉ cần chọn mua thực phẩm, rau củ và những thứ cần thiết, các chị em tiểu thương nhiều khi vừa bán vừa biếu, vừa tự nguyện thu gom đưa lên xe giúp.
Đứng bếp chính, sơ Hà hướng dẫn các chị em từ khâu sơ chế, nấu nướng cho đến phân chia khẩu phần cho nhà cơm chung, cho các sơ hưu và các em tập sinh, đệ tử. Nhận phần ăn cho nhà hưu dưỡng, nữ tu phụ trách bếp hưu đem thức ăn về nấu thêm để đạt độ mềm phù hợp cho các sơ cao niên. Ngoài bữa ăn chính, bếp hưu lúc nào cũng có một nồi cháo trắng, phòng khi các sơ cần dùng cho bữa chính hoặc bữa lỡ. Giờ ăn cũng là thời gian các chị em hàn huyên về công việc, chia sẻ chuyện vui buồn từ gia đình nơi quê nhà và cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện cho người thân trong lúc hữu sự…

Tại dòng Ảnh Phép Lạ, giáo phận Kon Tum, sơ Lucia Y Lét chân tình: “Các chị em trong hội dòng đa phần là người sắc tộc, từ nhỏ đã quen sống với núi rừng, nên bữa ăn cũng đa phần từ rau măng hoặc các vật phẩm từ rừng núi, mùa nào thức nấy”. Kể về những món ăn trong bữa cơm hằng ngày, sơ Y Lét liệt kê hàng loạt những món được chế biến từ các sản phẩm gần gũi với người đồng bào:“Mùa mưa mâm cơm hay có món măng kho, măng luộc chấm muối ớt hay măng nấu canh; rau nhíp xào tỏi; canh đọt mây; canh lá khoai mì hoặc lá khoai mì xào, làm dưa muối. Mùa nắng thì có cà đắng, khổ qua rừng, lá dớn, rau blu kít…”. Thừa nhận chi phí sinh hoạt cộng đoàn không được dồi dào, nên có món ăn từ thiên nhiên cũng giúp cho các chị em những bữa ăn không mấy tốn kém, ngoại trừ bột nêm, dầu mỡ. Có khi các sơ cùng với bà con lên rừng, vào nương rẫy hái lá, lấy măng. Có lúc cộng đoàn được bà con đi rừng về ghé vào biếu tặng. Thỉnh thoảng có ân nhân hỗ trợ gạo, nhu yếu phẩm, mì gói…, cộng đoàn liền sẻ chia đến các hộ gia đình xung quanh. Theo cảm nhận của sơ Y Lét, được cư ngụ giữa bản làng, được ăn những món quen thuộc khiến các chị em cảm thấy sự gần gũi, gắn kết với văn hóa ẩm thực đặc trưng của đồng bào mình, hội dòng mình.
Trong nhịp sống của các dòng tu nam nữ, có thể nói các dòng khổ tu (dòng kín) đã thể hiện tinh thần “khổ hạnh” trong lối sống, kể cả trong ăn uống, sinh hoạt. Những bữa sáng chỉ có cơm trắng và muối mè là một trong những minh chứng cho điều đó. Khoảng vài năm về trước, chi phí cho mỗi khẩu phần trong một ngày hai bữa chính của mỗi đan sĩ chỉ khoảng 12 ngàn đồng/người. Để cải thiện chất lượng bữa ăn, bên trong cánh cửa nhà dòng, các đan sĩ đã chủ động trồng rau củ quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm… Theo quy định chung, ngoài giờ lao động, nguyện cầu, làm việc đạo đức, chỉ khi đến giờ ăn mới là lúc cùng nhau chuyện trò, chia sẻ trong tình thân, trong hạnh phúc của đời thánh hiến.
*
Đúng là những bữa ăn sau cánh cửa các tu viện cũng không khác lắm ngoài đời, nếu nói về thực phẩm. Nhưng rất khác ở chỗ nó chuyển tải tình thân ái, sự liên đới của những tu sĩ với nhau, và chứa đựng tình cảm của người dân với từng hội dòng qua từng bó rau, ký thịt, và hơn hết, đó cũng là minh chứng về đời sống giản đơn, khó nghèo của những tu sĩ của Giáo hội.
Đàm An
Bình luận