“… Xứ đạo Công giáo là một không gian tôn giáo xã hội đặc biệt mà ở đó, một cấu trúc xã hội được thể hiện cách sống động, từ tổ chức Giáo hội, phẩm trật, đời sống thực hành tôn giáo… đến các nghi lễ, lễ hội, đời sống cá nhân (nghĩa cử, đạo đức, tội lỗi, phẩm hạnh, hôn nhân, cái chết...), và một đời sống xã hội (mối liên hệ xã hội với các giá trị Kitô giáo, Giáo hội, giáo sĩ, biểu tượng, nghệ thuật Kitô giáo....)…”, Viện sĩ hàn lâm khoa học Pháp Louis de Launay đã viết như vậy trong cuốn Le Christianisme (Payot, Paris, 1925)
Nhiều học giả Công giáo khẳng định, sống đạo hay lối sống đạo theo cung cách Việt Nam đã có từ nửa sau thế kỷ XVII. Theo tôi, có lẽ từ sống đạo cũng đã xuất hiện ít nhất từ năm 1849, khi xem qua Những thư chọn trong các Thư chung, Kẻ Sặt, 1903. Dĩ nhiên, ý nghĩa của từ sống đạo ngày đó chưa hoàn toàn như cách hiểu hiện nay.
Từ sau Công đồng Vatican II, mặc dù Giáo hội đã sống trong tinh thần “nới rộng lều”, nhưng cũng chưa tạo được những điểm nhấn trong thời đại mà tinh thần thế tục vẫn đang thách thức Giáo hội. Lều đã được nới rộng, nhưng chưa chắc chắn trước các xu hướng thế tục hóa và khuynh hướng thỏa hiệp với thế tục. Hay nói cách khác, Giáo hội vẫn lưu tâm đến việc “Đóng cọc lều cho chắc” (Is 54,2). Do đó, bước vào thiên niên kỷ thứ III, một số người Công giáo Việt Nam vẫn tương đối an tâm khi nhìn vào các nhà thờ trong giờ lễ thấy đông đảo tín hữu, nhất là giới trẻ, trong các dịp tĩnh tâm. Nhưng số đông họ có bằng lòng với thực tế này? Có lẽ là không. Linh mục Nguyễn Văn Luận trong Tản mạn đời thường của một giáo dân, Hợp tuyển suy tư... nhận định: “Người tín hữu ngày nay xác tín hay đã được nghe dạy rằng đức tin Kitô giáo không chỉ để cử hành trong nhà thờ, hay sống Tin Mừng của Chúa Kitô không chỉ là chiêm niệm Lời của Chúa trong chốn thâm sâu của tâm hồn, để củng cố và phong phú hóa mối quan hệ giữa mình và Thiên Chúa..., mà còn phải được sống trong dòng đời, tại chính nơi mình kiếm cơm nuôi sống bản thân và gia đình, trong chính công việc phục vụ xã hội mình đảm nhiệm. Xác tín này như đã trở thành một niềm tin chung của cả cộng đồng Kitô hữu”. Nói cách khác, đời sống nội tâm, cách suy nghĩ của người Công giáo Việt Nam bây giờ đã có không ít dấu hiệu trong tâm thức tôn giáo và lối sống đạo về cuộc hành trình “Lên đường trong hy vọng”, hướng ra xã hội. Và, Giáo hội Công giáo hoàn vũ vừa trải qua một kỳ Thượng Hội đồng Giám mục kéo dài và lan tỏa, dưới sự chủ trương của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, có một dự phóng táo bạo về một Giáo hội Hiệp Hành với 3 chiều kích: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ, cũng là đang nhắm đến đường hướng này.

Có không ít những dẫn chứng về mối quan hệ đức tin và cuộc sống của người Kitô hữu Việt Nam hôm nay. Ở đó, tín hữu coi trọng ơn gọi Chúa dành cho mình trong xã hội, qua việc phát huy “nén bạc Chúa giao”... Song song với những cử hành phụng vụ, họ còn hòa vào đời sống ngoài thánh đường bằng những hình ảnh mục vụ cùng các thông điệp mới mẻ “rất xã hội”. Chẳng hạn một đơn cử nhỏ nhất nhưng rất “đời” là nhiều linh mục tại vùng nông nghiệp vẫn khuyến khích, tổ chức cho bà con giáo dân làm nghề trồng rau cung cấp ra thị trường những sản phẩm an toàn đối với sức khỏe của người tiêu dùng. Một việc làm không chỉ hợp thời, hợp đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, mà còn được xem như đang sống tinh thần Tin Mừng, gắn liền với niềm tin Kitô giáo. Bởi không một giáo dân nào lại không hiểu rằng tất cả lề luật, giáo huấn của Giáo hội đều quy về lòng mến Chúa và yêu người. Và phải yêu người bằng những hành động cụ thể.
Thật sự, phương cách dấn thân của người Công giáo Việt Nam trong các xứ đạo hiện đã có sự thay đổi lớn. Trước hết, quan hệ giữa giáo xứ và giáo dân dù căn bản vẫn là một “định chế xã hội”, nhưng đã gần như hoàn tất sự “tái cân bằng” trách nhiệm giữa giáo sĩ và giáo dân; sau nữa, người giáo dân không chỉ có khả năng cộng tác mạnh mẽ vào xã hội nói chung với tư cách một người công dân, mà còn luôn đồng hành với những người yếu thế đồng đạo của mình, gắn kết với cuộc sống đời thường để phát triển và thăng tiến đất nước. Lối sống đạo này giúp hài hòa giữa tính tôn giáo và tính công dân. Bởi xưa nay, tôn giáo là một thực tại xã hội, không phải chỉ là sự liên quan riêng rẽ với từng cá nhân hay với các vị thần. Riêng với Kitô giáo, Chúa Giêsu 2000 năm trước đã có tính xã hội đậm nét bằng việc đến với mọi người, mọi giới, vì thế tính cách cộng đoàn rất được chú trọng. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, từ khi còn là một giáo sư Đại học, đã viết trong một khóa trình về đức tin: “Nếu chỉ có một bên là Thiên Chúa, một bên là những cá nhân rời rạc, thì đạo Chúa Cứu Thế không dùng làm gì được cả” (Foi chrétienne hier et aujourd’hui, Paris, 1970, tr.167).
GS.TS Đỗ Quang Hưng
Bình luận