CN XXIX thường niên - năm C - Lc 18,1-8
“... phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1).
Kiên tâm bền đỗ là nhẫn nại chịu đựng trong hành động và trong đức tin. Theo nghĩa tiêu cực, đây có thể là đần độn. Nhưng theo nghĩa tích cực đây có nghĩa là một sự đoan kết liên tục với Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
![]() |
Loài người lì lợm trong tội “các dân ấy đã kính sợ Chúa, nhưng cũng phụng thờ các ngẫu tượng của họ; con cái cháu chắt họ cũng làm như cha ông họ cho đến ngày nay” (2V 17,41). Hạch tội dân bội bạc, Đức Chúa phán: “Biết đánh các ngươi vào chỗ nào nữa, hỡi những kẻ cứ khăng khăng nổi loạn” (Is 1,5). Còn dân ngoại: “họ cứ phạm những tội đó, lại còn tán thành những kẻ làm như vậy” (Rm 1,32; x. Xh 9,1-3; Đnl 29,19; Tl 14,17; 2V 13,11; Đn 12,10).
Thiên Chúa kiên trì kêu gọi Israel tuân phục: “Đã nhiều năm Chúa kiên nhẫn với họ ... do lượng hải hà, Chúa đã không diệt trừ, cũng chẳng bỏ rơi họ, vì Ngài là Đấng nhân hậu từ bi” (Nkm 9,30-31; Xh 32,14; 1V 3,6; Is 40,28; Gr 26,13; Gn 3,10).
Chúa Giêsu Kitô kiên nhẫn với những người chưa tin: “... Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, vì nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí” (Dt 12,1-3; x. Mt 17,17 // Mc 9,19; 2Tx 3,5).
Sự kiên tâm của các Kitô hữu trong đức tin: “Anh em đã nhận Đức Kitô Giêsu làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hiệp với Người. Anh em hãy bén sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng anh em chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2,6-7; x. Cl 1,10-12.23; Mt 24,12-13; 10,22; Ga 15,4-10; Rm 11,22; 1Cr 1,8; 2Cr 10,15; Pl 2,12; 2Tx 3,4; Dt 6,1; 10,36-38; 2Pr 3,18).
Kiên trì cầu nguyện (Lc 18,1-8; x. Lc 11,5-13; Rm 12,12; Ep 6,18; 1Tx 5,17).
Đau khổ làm phát sinh sự kiên tâm chịu đựng: “chúng ta tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng” (Rm 5,3-4; x. Rm 12,12; 2Cr 1,6; 2Cr 1,6; 2Tx 1,4; 2Tm 3,10-11; Gc 1,2-3; 1Pr 4,19; Kh 2,2-3.19).
Sự kiên tâm bền đỗ tạo nên và chứng minh tính chất của kitô hữu: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,7) và “Ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên, ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy” (Rm 5,4; x. 2Cr 1,21-22; 12,12; Gc 1,4; 2Pr 1,5-8).
Khích lệ các Kitô hữu kiên tâm bền đỗ: “ông Barnaba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy (tại Antiôkia) bền lòng gắn bó cùng Chúa” (Cv 11,23). “những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông Phaolô và Barnaba. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa” (Cv 13,43). “Anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia công việc của Chúa vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích” (1Cr 15,58; x. 1Cr 16,13; Pl 1,27; 2Tm 1,13; Dt 2,1; 4,14; Kh 3,11).
LM. PHAOLÔ PHẠM QUỐC TÚY - GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG
Bình luận