Mây vẫn phủ trắng làng Mảnh và Giàng Pằng mỗi ngày, và giữa lớp sương ấy, tôi nhìn thấy những hình ảnh khó quên: từ đôi mắt trẻ thơ, bàn tay gầy của người mẹ Mông, nhịp chân bền bỉ của người cha vượt núi… nơi hai ngôi làng hẻo lánh thuộc xã Sơn Lương, tỉnh Lào Cai (tức xã Sùng Ðô, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái cũ). Ðó là nơi tôi đã đến, đã nhìn thấy sự khó khăn cực nhọc của bà con mình, và mang theo mình một câu chuyện chưa bao giờ thôi trăn trở.

DỐC NÚI, ĐƯỜNG ĐẤT… VÀ DẤU TÍCH BÃO LŨ
Tôi bắt đầu hành trình đến làng Mảnh vào một buổi sáng mờ sương. Con đường trơn trượt dẫn vào bản chỉ rộng chưa đầy mét, một bên là vách núi dựng đứng, thỉnh thoảng có dòng suối lạnh chảy xiết từ trên ngàn xuống; bên kia là vực thẳm với những vết đất đá sứt mẻ còn mới. Ngồi sau xe máy, tôi cảm giác như chỉ một cú trượt nhẹ là có thể đổ nhào xuống thung sâu.
Làng Mảnh nằm trên độ cao từ 1.400-1.800m so với mực nước biển, cảm giác như “cách biệt với thế giới” do ngăn trở đèo cao và núi thẳm, là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc H’Mông. Mưa nhiều, sương suốt, ẩm ướt triền miên… khiến đất mềm nhão, sạt lở xảy ra như “cơm bữa”, chỉ là với quy mô khác nhau. Giàng Pằng cũng vậy, tuy vị trí gần với đường lớn hơn nhưng địa hình cao hơn, lại dốc, nên lưu thông cũng khó nhọc vô cùng. Ngồi sau chiếc xe máy cũ kỹ, trải nghiệm chặng đường chỉ một đoạn, thế mà rất nhiều lần tim tôi như muốn rơi khỏi lồng ngực. Anh Giàng A Đua, một người con của bản chở tôi, kể:“Có những ngày, từ sáng sớm đến chiều tối cả làng chỉ nghe tiếng mưa, tiếng những con suối cuộn hung dữ và tiếng đá rơi. Muốn đi đâu cũng không dám”. Nơi này không có mạng lưới điện quốc gia, điện thoại và mạng wifi thì sóng ẩn hiện chập chờn. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, dân làng chỉ biết đến ánh sáng từ bếp lửa hoặc những chiếc đèn pin mua từ cửa hàng tạp hóa ở trung tâm xã - cách bản hơn hai chục cây số - trong những chuyến đi hiếm hoi. Những nương lúa, vạt ngô, một ít chè xanh, ít cây quế là tài sản quý nhất của dân làng. Giá quế, giá chè năm được năm thất, chi phí vận chuyển lại quá cao, khiến thu nhập của họ phập phù. Vì vậy mà cái nghèo cứ bám riết. Nhiều gia đình quanh năm không tích lũy được gì, nguồn lương thực chính chỉ nhờ vào mùa lúa rẫy mà sản lượng thì ít ỏi. Ông Hờ A Trừ - trưởng thôn - ao ước: “Tôi mong muốn một ngày bà con có được con đường bê tông để đi lại thuận lợi; có mạng điện lưới quốc gia thắp lên ánh sáng trong toàn bản; để xóm làng được tiếp xúc công nghệ mới, giúp phát triển kinh tế và học hỏi được nhiều điều bổ ích”.
Làng chỉ có một điểm trường mầm non, nhỏ đến mức đứng ngoài có thể nhìn hết không gian bên trong. Vậy mà có những em bé kiên trì đi bộ mấy cây số, tự vượt đồi, vượt suối để đến lớp, dù mùa khô hay mùa lạnh. Hai cô giáo trẻ, những người mà tôi luôn ngưỡng mộ, phải bám bản nhiều tuần, nhiều tháng mới về thăm nhà một lần, để dạy chữ trong điều kiện thiếu thốn. Cô Ngô Thùy Linh đứng cạnh tôi, giọng buồn: “Ở đây tụi em vẫn chưa có được nguồn nước sạch, phải dẫn nước từ trên khe xuống để dùng. Nhà trường thì có điện mặt trời; còn wifi thì vẫn phải vác máy đi “vợt sóng” mới có để làm việc”.
Vậy đó, khó khăn muôn trùng bủa vây. Mà cũng chưa hết, miền này còn liên tục bị thiên tai. Như hôm tôi đến làng Mảnh cũng là lúc cơn bão Bualoi vừa quét qua Yên Bái. Cảm giác đầu tiên là sự im lặng đến lạ, không phải bình yên, mà là hơi thở mệt mỏi của một nơi vừa đi qua biến cố. Ngồi sau xe Giàng A Đua, tôi nghe anh ngậm ngùi: “Bão năm nay mạnh lắm. Núi sạt, nước suối tràn lên, có đoạn đường bị cuốn trôi hết. Trong bản chỉ có một vài hộ gia đình có điều kiện hơn, sắm được máy tuabin phát điện nhờ sức nước, rồi cũng bị lũ cuốn hết, cả làng lại chìm vào bóng tối…”. Tôi nhìn thấy những mảng đất bị xé toạc, những gốc cây khổng lồ bật rễ nằm chắn ngang đường, những mái nhà tạm liêu xiêu, những câu chuyện kể về việc đất núi sạt lở, vùi lấp nương rẫy, bẻ gãy đường sá… Có gia đình mất hẳn ruộng lúa, mất gia súc, gia cầm và mất hết cả tài sản ít ỏi mà họ đã dày công chắt chiu. Cô giáo Linh cho hay: “Tụi em vào đây để dạy con chữ cho các cháu, cũng đã không ít lần rơi cả xe cả người xuống triền dốc, may mà có người dân làng nhìn thấy và giúp kéo lên, khi không có ai thì cũng phải cố gắng lồm cồm bò dậy và đi tiếp. Có hôm mưa lũ sạt đường, cả mấy tuần em không thể vào đây được, hoặc có khi bị mắc kẹt lại, muốn về thăm nhà cũng không biết làm cách nào”.
ÁNH SÁNG BẮT ĐẦU VÀ NHỮNG ƯỚC MƠ
Nếu chỉ có khó khăn và mất mát như vừa kể, thì câu chuyện của làng Mảnh và Giàng Pằng chắc sẽ buồn lắm. Nhưng không, trên triền núi mù sương bây giờ đang có những bàn tay được nối lại với nhau, âm thầm mà mạnh mẽ, để cải thiện phần nào cuộc sống bao đời khó khăn nơi đây. Ngoài những nỗ lực của chính quyền, còn có sự hà hơi tiếp sức của các đoàn thể, các tổ chức và những nhà hảo tâm. Mỗi người một chút, ôm lấy bản làng xa xôi, trong yêu thương.
Chẳng hạn như mới đây, Hội Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết và Hội Bác Ái Marguerite đã trang bị 8 máy tuabin phát điện bằng nước, lợi dụng sức chảy và độ cao của những con suối, cung cấp điện cho 20 trong số 59 gia đình tại làng Mảnh. Vậy là sau nhiều năm, một phần bản này đã có điện, trẻ nhỏ có thể mở sách dưới ánh đèn thay vì bếp lửa. Tuy nhiên, những hộ còn lại ở Mảnh và 96 hộ tại Giàng Pằng thì còn chờ đợi những cơ hội khác, nhiều căn nhà vẫn chìm trong bóng đêm, nhưng ánh sáng đã bắt đầu len lỏi, như hạt giống hy vọng không thể dập tắt. Trên đường dẫn chúng tôi xuống khu suối mới đặt tuabin phát điện, Hờ A Sở - một người bản địa - phấn khởi: “Chúng tôi mừng lắm, cảm ơn các ân nhân thật nhiều. Ở đây trời thường xuyên mù sương, ban đêm không có đèn thì thực sự khó mà di chuyển hay làm gì được. Giờ có ánh sáng rồi, có những công việc có thể tranh thủ làm thêm buổi tối, con cái học hành cũng thuận tiện hơn. Chỉ ước mong cho hết mọi gia đình ở làng Mảnh cũng như Giàng Pằng cũng sớm có điện, như vậy cuộc sống sẽ sớm ổn định”.
Hội Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết và Hội Bác Ái Marguerite cũng đang giúp một phần kinh phí để làng thuê máy múc mở đường vào khu ruộng sản xuất. Nơi này lâu nay người dân phải vác từng bao lúa leo núi, băng rừng trở về nhà, chưa có được một con đường mòn dù nhỏ để có thể vận chuyển bằng xe máy. Đứng trên triền núi nhìn xuống những mảng ruộng nhỏ xíu, nghe mấy anh nông dân cười nói về vụ lúa sắp tới, dễ cảm nhận một niềm vui rất thật, rất gần gũi, dù những vụ lúa dẫu quý giá vẫn chỉ đủ vài tháng lương thực cho các gia đình. Còn với chè và quế, nguồn thu nhập chính, thì vẫn còn những gian nan. Chè phải mang xuống núi trong vòng 6 giờ sau thu hoạch, nếu không sẽ mất hương, giảm giá trị. Nhưng để vận chuyển, họ phải vượt qua chặng đường rừng hiểm trở đến trung tâm xã. Đường đèo dốc, đá lở, suối sâu, họ cõng từng bao quế nặng, từng bó chè xanh qua những con dốc thẳng đứng. Bài toán thật nan giải.
Như đã nói, ở vùng đất cằn cỗi này vẫn có những người đang âm thầm gieo rắc yêu thương. Như hôm lên đây chúng tôi gặp nhóm “Thiện nguyện Bản Em”, kết nối với các nhà hảo tâm để mang đến lương thực, áo ấm, vật dụng học tập cho trẻ nhỏ. Tuy con số thành viên của nhóm này thật khiêm tốn nhưng lại quy tụ những trái tim nhiệt thành, giúp đồng hành và góp phần hỗ trợ bà con trong nhiều lĩnh vực. Anh Nguyễn Quốc Hoàng, phó nhóm, cũng là thành viên Công giáo duy nhất, nêu một thực tế: “Một cân quế khi chở ra đến tận nơi thu mua bán được khoảng 30 ngàn, còn chè tươi thì chỉ có 15 ngàn/kg. Chè tươi hái cả ngày đôi khi cũng chỉ được 10 hoặc hơn 10kg thôi, vì trồng ở địa hình dốc núi rất khó thu hoạch. Khi vận chuyển ra đến nơi thu mua, số tiền họ bán được đôi khi không đủ để đổ xăng và sửa xe nữa. Rồi thì nhà của của họ cũng chỉ là gỗ ván ghép lại tạm bợ, hôm rồi lũ về, vùi ngập, được mấy bao thóc để dành cho cả nhà ăn trong thời gian chờ mùa vụ mới cũng bị ngâm trong nước, mọc mầm cả, giờ không biết họ sẽ ăn gì để sống nữa…”. Hoàng đến từ một xứ đạo cách làng gần năm chục cây số, là ca viên ca đoàn. Anh xem việc chung tay với nhóm để giúp bà con nghèo là một phần quan trọng trong cuộc sống, hay nói cho đúng hơn, chính là niềm vui vì thấy mình có đóng góp ý nghĩa. Anh Nguyễn Thành Dương, trưởng nhóm thì nói về những ưu tư: “Giá như có được một chiếc xe tải, người dân chỉ cần chở bằng xe máy từ đây đến tập kết tại ngã ba Giàng Pằng, rồi chúng tôi sẽ giúp vận chuyển tiếp đến khu thu mua cho kịp thời gian. Như vậy sẽ đỡ vất vả hơn việc chở bằng xe máy trên chặng đường dài, lại có thời gian quay vào chở chuyến thứ hai cho kịp. Nếu đường tốt, có xe, chắc chắn người dân có thể sống được với cây chè, cây quế”.
Tôi rời làng Mảnh khi trời vừa nhá nhem và bóng tối kéo đến thật nhanh, mây sương lạnh dày đặc. Nhưng rồi cũng buộc phải dừng chân trên một đoạn núi cheo leo hiểm trở, vì trước mặt là đống đất đá vừa sạt lở, chắn ngang con đường nhỏ bé duy nhất. Nép mình vào vách núi giữa trời mây và mưa phùn ướt lạnh để chờ đợi chiếc xe múc nặng nề gạt từng cụm đất đá, mở đường trong đêm đen, trước mặt tôi là vách núi tan hoang sạt lở, bên hông là vực sâu, trên đầu là vách đá nứt toạc với những khe nước chảy từ đỉnh núi, có thể sẵn sàng đổ ập xuống bất kỳ lúc nào. Và sau lưng, những gương mặt, đôi mắt vẫn đang hy vọng có thêm sự cải thiện điều kiện sinh hoạt.
Giữa câu chuyện đời thường, họ nói về tương lai, bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng đầy khát vọng. Những người làng ước mơ điều tưởng chừng nhỏ nhoi vậy mà khó quá: dân bản muốn có thêm tuabin điện để tất cả các hộ đều có ánh sáng; mong có con đường được trải bê tông hay nhựa, dù chỉ rộng một mét, để xe máy đi lại suôn sẻ, chở nông sản dễ dàng, và lũ trẻ có thể đến trường trong an toàn, không phải run rẩy leo lên từng con dốc núi. Giàng A Đua ngồi bên cạnh, nói một câu khiến tôi mãi hoài thao thức:“Con đường này ngày xưa chúng tôi đi học là đều đi bộ cả mấy chục cây số, giờ có xe chở con cái ra trường nội trú thì đỡ hơn, một tháng đón về một lần, chứ đường khó quá không đi mỗi ngày được, nhưng rất nhớ con. Vì không có đường lớn mà chỉ là đường đất nhỏ sát vách núi nên chuyện sạt lở cũng thường xuyên, nhiều lúc đi vậy chứ không biết liệu có thể quay về đến nhà được không… Nhưng cuộc sống dù cơ cực đi nữa, thì nhất định phải cho con cái được học chữ, để đời tụi nhỏ sáng hơn đời cha mẹ…”. Tôi nhìn đứa trẻ đang ngủ cuộn trong lớp địu mỏng đẫm sương, khuôn mặt lấm lem nhưng thánh thiện đến lạ. Trong khoảnh khắc đó, tôi hiểu ra rằng ánh sáng mà họ ước mơ không chỉ là ánh điện, mà còn là ánh sáng của hy vọng, tri thức, tình liên đới và Tin Mừng. Tôi nhớ đến lời Đức Thánh Cha Phanxicô: “Giáo hội phải đi ra vùng ngoại biên, để trở thành ánh sáng trên những vùng đất tối tăm”, và bất chợt nhận ra mình đang đứng ngay tại một “vùng ngoại biên” như thế. Một nơi mà ánh sáng Tin Mừng có thể được gieo vào bằng chính những việc bé nhỏ, nhưng chứa chan tình bác ái.
Nt Maria Vân Uyên
Hội dòng MTG Phan Thiết
Bình luận