1. Công giáo Việt Nam, những mâu thuẫn và hội nhập văn hóa
1.1 Hội nhập văn hóa trước Công đồng Vatican II
Hội nhập văn hóa là một thuật ngữ chỉ mới được nhắc đến trong Giáo hội kể từ sau Công đồng Vatican II (1963-1965), nhưng tiến trình hội nhập văn hóa đã diễn ra từ rất sớm, chúng ta có thể tìm thấy những ghi chép về sự giao thoa giữa đức tin và văn hóa của “dân ngoại” trong Kinh Thánh. Một ví dụ rõ ràng và cụ thể là trong chương 15 của sách Công vụ Tông đồ, thánh sử Luca đã thuật lại chuyện Công đồng Giêrusalem cho phép dân ngoại ở Antiokia đón nhận đức tin mà không phải chịu phép cắt bì theo luật Môsê. Quyết định ấy đã mở ra cánh cửa cho việc truyền bá Tin Mừng một cách linh hoạt và rộng rãi trong suốt 2000 năm lịch sử tiếp theo.

Đến đầu thế kỷ thứ IV, khi Công giáo được hợp pháp hóa ở đế chế La Mã sau ba thế kỷ bách hại, những nét văn hóa và lễ nghi của người La Mã đã được dần biến thành văn hóa Công giáo La Mã. Rồi sau đó, khi Tin Mừng được loan báo cho các dân tộc German, Norman, Celt… thì văn hóa bản địa của các dân tộc này cũng thẩm thấu vào đời sống phụng vụ, hình thành nên văn hóa Công giáo châu Âu.
Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XVI, dưới tác động của phong trào Kháng cách, Giáo hội có xu hướng khẳng định bản sắc của mình theo hướng phủ định những yếu tố ngoài Công giáo. Sau Công đồng Trent (1546-1563), Giáo hội bày tỏ thái độ “tôn trọng văn hóa địa phương của các xứ sở mới”, nhưng vẫn có phần khắt khe với những vấn đề liên quan đến đức tin và phụng vụ. Ở nước ta, do khác biệt lớn về thế giới quan và đời sống tâm linh mà những mâu thuẫn văn hóa giữa người Công giáo với người chưa đón nhận Tin Mừng ở Đàng Trong, Đàng Ngoài nảy sinh, rồi trở nên gay gắt. Những mâu thuẫn không được dung hòa, đối thoại, thấu hiểu đã dẫn đến sự phân biệt bên lương - bên giáo, khiến người tin vào Thiên Chúa phải tách khỏi làng xã, sống biệt lập nơi xóm đạo.
1.2 Hiểu “bên lương” và mâu thuẫn lương - giáo
Một nhà nghiên cứu là linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris, cha Léopold Michel Cadière (1869-1955), khi nói về đời sống tâm linh của anh chị em lương dân, đã nhận định như thế này: “... Tâm thức tôn giáo thể hiện một cách mãnh liệt và chế ngự toàn thể cuộc sống con người. Tâm thức ấy... kết thành một mạng lưới chằng chịt qua các biểu hiện thực hành, khi hoành tráng lễ nghi ở đền đài miếu vũ công khai, khi thì âm thầm nhẹ nhàng giây lát bên gốc cây, hòn đá... Họ dâng hương hoa thơm ngát lên chư Phật rực rỡ tòa cao... nhưng cũng vái lạy trước những hình tượng mặt mày nhăn nhó, thờ hổ, thờ rắn... Ma thuật với những thực hành kỳ quái hoang dã ấy lại hòa trộn vào những hành vi tôn giáo cao cả nhất”.
Là người tiên phong trong ngành Việt Nam học với những quan sát sâu sắc và phân tích tinh vi, cha Cadière đã đóng góp nhiều công trình nghiên cứu được đánh giá cao, và nhiều người sử dụng như một tham chiếu đáng tin cậy cho những luận giải về văn hóa Việt Nam. Nhận định được trích dẫn ở trên cũng là một cơ sở đủ uy tín và xác thực để đi vào phân tích. Từ nhận định này, có thể nhìn ra căn nguyên của mâu thuẫn lương - giáo là sự trái ngược của hai thế giới quan trong cùng một đời sống tâm linh sôi nổi.
Thế giới quan là cách mà con người nhìn nhận và lý giải về vạn vật và xã hội xung quanh. Trong thế giới quan truyền thống của người Việt, các tôn giáo không tồn tại một cách độc lập mà được dung hợp thành một thể thống nhất, có Trời, có Phật, có tiên, có thần thánh địa phương, cửu huyền thất tổ, yêu ma quỷ quái, sinh vật huyền thoại… Để hiểu thế giới quan này, không thể dùng hệ tư tưởng của một tôn giáo hay tín ngưỡng duy nhất, vì nó là tổng hòa của nhiều tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Sự tổng hòa này được hình thành dựa trên quan điểm vạn vật hữu linh và lối tư dung hợp theo kiểu “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Chính vì thế mà trong đời sống tâm linh của người ngoài Công giáo, như thống kê của cha Cadière, không chỉ có “lễ nghi ở đền đài miếu vũ” mà còn có những thực hành “bên gốc cây, hòn đá”. Họ không chỉ “dâng hương hoa thơm ngát lên chư Phật” mà còn “vái lạy trước những hình tượng mặt mày nhăn nhó”, thậm chí thờ cả những lực lượng tự nhiên như hổ, rắn, đá...
Trong khi đó, thế giới quan của cộng đồng Công giáo lại hình thành dựa trên niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất và chịu nhiều ảnh hưởng của Giáo luật. Trong thế giới quan ấy, chỉ có Thiên Chúa để thờ phượng (latrie) và các thánh để tôn kính (dulia). Theo đó, người đã được rửa tội không thể vừa đi nhà thờ (đi đạo), vừa tham dự các hoạt động văn hóa truyền thống như cúng đình, hầu đồng, nấu cháo lá đa, làm cơm cúng giỗ… Nghĩa là, họ hoàn toàn bị tách biệt khỏi các sinh hoạt tâm linh của làng xã nơi quê hương bản quán. Sự xa cách và khác biệt thế giới quan đã cản trở những đối thoại cần thiết, dẫn đến việc các sinh hoạt văn hóa mới hình thành trong cộng đồng Công giáo Việt Nam, được định hướng bởi đức tin và tư tưởng của các vị thừa sai châu Âu, trở nên dị biệt trong mắt lương dân.
Như đã nói, ở Việt Nam, “tâm thức tôn giáo thể hiện một cách mãnh liệt và chế ngự toàn thể cuộc sống con người”. Nghĩa là bất kể niềm tin, người Việt Nam nói chung thường có một đời sống tâm linh dồi dào và mãnh liệt. Mạch sống này không chỉ góp phần định hình thế giới quan, tác động đến suy nghĩ, chi phối hành vi của con người, mà còn tạo nên những thói quen, kiêng cữ, nghi thức, lễ hội…, và cuối cùng là định hình văn hóa. Dưới sự thúc đẩy của niềm tin và đời sống tâm linh sôi nổi, những khác biệt thiếu đối thoại trong quá khứ dần trở nên gay gắt rồi trở thành những hành động cực đoan, những tẩy chay, cô lập; những bắt bớ, bách hại; những hy sinh, tử đạo…
(xin xem tiếp kỳ sau)
KỲ PHONG
Bình luận