4. Đức Maria - Thánh Mẫu của người Công giáo Việt Nam
4.1. Thánh Mẫu trong tín ngưỡng dân gian
Dưới tác động của tín ngưỡng phồn thực và sự sùng bái thiên nhiên của văn hóa nông nghiệp, hình tượng Mẫu đã xuất hiện trong văn hóa Việt Nam dưới hình ảnh người bà, người mẹ có con đàn cháu đống, đại diện cho các lực lượng tự nhiên được thần thánh hóa như trời, đất, nước… Tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong những thành tố văn hóa cổ xưa nhất của người Việt, vẫn tồn tại và phát triển trước ảnh hưởng của quá trình giao lưu văn hóa.
Về mặt hình tượng, Thánh Mẫu là kết tinh của ba đặc tính: linh thiêng, che chở và nuôi dưỡng. Tính linh thiêng thể hiện trong quan niệm xem các vị nữ là những đấng cai quản và là cầu nối giữa con người với thế giới siêu nhiên. Đặc tính này gắn liền với niềm tin vào nguồn gốc thần thánh và ân huệ linh thiêng của Thánh Mẫu. Từ niềm tin đó, đặc tính che chở được hình thành và củng cố thông qua hành vi cầu khẩn, cúng vái, cậy trông các Bà, các Mẫu, các Cô… khi gặp cơn nguy khốn. Sự cậy trông, khấn vái lại gắn liền với tâm thức nhìn nhận các Thánh Mẫu như một người bà, người mẹ đang chăm sóc đàn con cháu. Chính tâm thức ấy đã tạo nên đặc tính nuôi dưỡng và liên hệ đặc tính này với vai trò của tự nhiên trong đời sống nông nghiệp (cung cấp lương thực, nơi ăn, chốn ở…).

Tín ngưỡng thờ Mẫu nảy sinh ra hệ thống các nữ thần gắn liền với vũ trụ quan của cư dân nông nghiệp, từ các thần cai quản tự nhiên như Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải…; đại diện cho những nguyên tố hình thành nên không gian sống như Ngũ Hành Nương Nương; đến các thần coi sóc địa phương như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sông…, rồi các thần gắn liền với đời sống như Bà Chúa Kho, Mười Hai Bà Mụ…
Với tư duy dung hợp của người Việt, tín ngưỡng này còn tiếp biến nhiều hình tượng văn hóa một cách thật độc đáo. Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam thì Quán Thế Âm Bồ Tát vốn được tôn kính như một vị nam thần ở Ấn Độ và Tây Tạng, lại xuất hiện dưới các hình tượng Mẹ Quán Âm, Mẹ Nam Hải, Phật Bà nghìn mắt nghìn tay... Các nữ thần Mây - Mưa - Sấm - Chớp của tín ngưỡng dân gian vốn không có trong văn hóa Phật giáo đã được chuyển biến thành Tứ Pháp: Vân - Vũ - Lôi - Điện và lập chùa riêng để thờ. Rồi khi người Việt đến định cư tại những vùng đất chịu sự ảnh hưởng của tín ngưỡng Bà La Môn thì các vị nữ thần địa phương tiếp tục được tôn kính, còn các nam thần thì có xu hướng được chuyển biến thành nữ. Chẳng hạn, ở quần thể đền tháp Po Nagar, vị nữ thần Mẹ Xứ Sở (Po Inu Nagar) đã được đặt một cái tên Việt là Bà Thiên Y Ana với thần tích và lễ vía như một vị Thánh Mẫu điển hình. Một trường hợp khác có phần vô ý là tượng nam thần Vishnu của nền văn hóa Óc Eo đã được những người Việt đến khẩn hoang vùng Tây Nam Bộ nhầm là nữ và tôn phong là Bà Chúa Xứ Núi Sam.
4.2. Thánh Mẫu của người Công giáo
Khi lớp văn hóa Công giáo tiếp xúc với tầng văn hóa bản địa Việt Nam, sự tiếp biến cũng diễn ra như lúc các tôn giáo, tín ngưỡng khác được truyền bá. Với tư duy dung hợp sẵn có của một nền văn hóa nông nghiệp, các tín hữu Công giáo Việt Nam đã nhận ra những điểm tương đồng giữa Đức Maria và hình tượng Thánh Mẫu của tín ngưỡng dân gian, với đầy đủ ba đặc tính là: linh thiêng, che chở và nuôi dưỡng.
Tính linh thiêng của Đức Maria được Giáo hội Công giáo xác tín suốt chiều dài lịch sử. Ngay từ năm 431, Công đồng Ephesus I đã công nhận Đức Maria là Thánh Mẫu (Theotokos) và đặt nền tảng cho việc tôn kính Người trong phụng vụ. Suốt 1500 năm sau đó, Giáo hội tiếp tục suy tôn Người với nhiều danh hiệu cao trọng như: Mẹ Thiên Chúa (Mater Dei), Đấng vô nhiễm nguyên tội (Immaculata Conceptio), Nữ Vương Thiên Đàng (Regina Caeli)... Đến năm 1964, Hiến chế Tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) của Công đồng Vatican II đã long trọng tuyên bố “Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật khác, trên trời cũng như dưới đất”.
Tính che chở trước tiên đến từ vai trò trung gian các ơn của Đức Maria (Mediatrix omnium gratiarum). Nếu như trong tín ngưỡng dân gian, Mẫu là điểm giao hòa giữa trần gian và cõi thánh, thì trong đức tin Công giáo, Đức Maria là nhịp cầu thiêng liêng giữa con người và Thiên Chúa. Nhưng khác với Mẫu được tin là cội nguồn ân phúc, Đức Maria là Đấng chuyển cầu và thông ban ân sủng của Thiên Chúa cho nhân loại. Như vậy, về mặt nguồn gốc và bản chất thì tính che chở của một vị nữ thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và của Đức Maria là khác nhau. Nhưng về tâm thức và thực hành thì lại có không ít điểm tương đồng. Tương tự như Mẫu là chỗ dựa tinh thần của bà con lương dân, Đức Maria là nguồn cậy trông của các tín hữu Công giáo. Người được tôn là Đấng hằng cứu giúp (Nostra Mater de Perpetuo Succursu), Đấng phù hộ các giáo hữu (Auxilium Christianorum), Đấng gỡ các nút thắt (Solutrix Nodorum / Knotenlöserin)…
Tính nuôi dưỡng đến từ tâm thức xem Đức Maria là một người bà, người mẹ luôn dõi theo vào chăm sóc đàn con, tựa như một Thánh Mẫu trong tín ngưỡng dân gian. Cũng như tính linh thiêng, tính nuôi dưỡng này đã đến từ đức tin Công giáo. Hiến chế Tín lý về Giáo hội (Lumen Gentium) khẳng định “Người thật là Mẹ các chi thể”, nghĩa là Mẹ toàn thể Hội Thánh. Chính vì thế mà “Giáo hội Công giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu”.
(còn nữa)
Bình luận