Khi được hỏi động lực nào làm cha gắn bó, một lòng đi cùng người khốn khó trong suốt quãng đời mục vụ, linh mục Vinh Sơn Nguyễn Bá Quý - Tu hội Đắc Lộ - chia sẻ ngắn gọn bằng một câu Thánh Kinh: “Tình yêu Chúa Kitô đã thúc bách tôi (2Cr 5,14)”.
|
Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Bá Quý |
VÙNG CAO THƯƠNG NHỚ
Trong căn phòng làm việc tại đền Thánh Giuse (69 Trường Chinh,quận Tân Bình, TP HCM)), cha Quý cặm cụi lần giở những cuốn album xỉn màu - kỷ niệm của mỗi đợt thiện nguyện đó đây, say sưa giới thiệu với chúng tôi những tấm hình vàng ố ngài vẫn nhớ như in chụp ở đâu, năm nào... Và rồi, hành trình đến với người lao nhọc dần sống lại, khơi dậy trong cha hồi ức khó phai.
Ngày 4.6.1966, tại nhà thờ Ba Chuông (quận Phú Nhuận - TPHCM), cha hân hoan lãnh nhận sứ vụ linh mục ở tuổi 27. Sau đó, vâng theo bề trên, cha ngược lên Kontum đảm nhận phó xứ Thăng Thiên kiêm hiệu trưởng Trường Tư thục Trung Tiểu học Minh Đức của giáo xứ. Công việc bộn bề, phải luôn lo toan nhiều thứ, nhưng với sức trẻ và tinh thần hăng say rao giảng Tin Mừng, cha đã từng bước vượt qua. Sáu năm sau, trường Minh Đức có người kế nhiệm, cha chuyển sang làm mục vụ cho người dân tộc ở Pleiku. Có chút lo lắng, có chút bỡ ngỡ gợn lên trong lòng linh mục trẻ. Tuy vậy, niềm xác tín “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” vẫn luôn tỏ ngời, cha hăng hái, dấn bước đi trên chặng đường mới.
![]() |
Cha Quý giải tội tại nhà dưỡng lão ở Bình Phước |
Từ đó, những ngày cuối tuần, cha cùng vài giáo dân chở nhau trên các con đường đất đỏ quanh co, uốn lượn, đến với bà con dân tộc. Từ thực tế nơi đây, cha nhận thấy cần phải giúp họ cải thiện đời sống cho khá hơn, đặc biệt là lo về y tế và giáo dục. Cha và các cộng sự giúp người dân tộc biết đến y tế, thuốc thang. Thi thoảng, cha mời thêm các đoàn y bác sĩ đến khám, phát thuốc miễn phí và chỉ dẫn bà con cách nấu chín uống sôi, đào giếng, vệ sinh tắm giặt để tránh các bệnh da liễu, đường ruột. Tạm ổn mối lo này, đêm nằm, cha trăn trở mối lo khác.
Hiểu rõ người dân tộc còn nghèo, còn bệnh tật, bắt nguồn từ trình độ nhận thức kém, vì vậy, cha nghĩ cần giúp họ biết tới con chữ, việc học. Vào các buôn làng, cha vận động phụ huynh cho con cái đến trường; phần tập bút, sách vở, quần áo, học phí sẽ có người phụ gánh vác. Với các em, cha khích lệ bằng những chương trình học bổng, phần thưởng. Giáo viên cắm bản cũng được hỗ trợ thêm để không nản lòng, nhụt chí khi dạy trẻ dân tộc. Khi mọi việc đã đi vào quy củ, cha lập nhà nguyện, đào tạo các giáo phu (người dạy giáo lý) có thiện chí và hướng dẫn họ trò chuyện với Chúa cách giản đơn.“Bấy giờ, tôi như người mở đường, đi bước trước để các cha có chuyên môn sau này tiếp tục công việc. Bởi trở ngại lớn khi đó là rào cản ngôn ngữ, mình không sõi tiếng dân tộc nên phải có người dịch. Thêm nữa, người Bana có sách kinh tiếng Bana nhưng Giarai thì chưa, đành để họ cầunguyện bộc phát, rất tội nghiệp”, cha Quý nhớ lại.
![]() |
Dâng lễ tại một nhà dưỡng lão |
Thời gian trôi, cuối năm 1974, chiến tranh ác liệt, cha tạm biệt vùng cao, về lại miền xuôi. Trong hành lý mang theo, cha gói ghém kỷ niệm ngày nào rong ruổi trên các con đường mù bụi khi nắng, ướt lạnh khi mưa và hơn hết là tình cảm đong đầy của bà con với những lần tặng cha quả chuối, chục trứng, chiếc vòng tay, những buổi thân tình bên ché rượu cần. Cha vẫn nhắc lui nhắc lại:“Họ nghèo vật chất nhưng giàu tình cảm, thật cái bụng, tốt cái tâm. Về đây, nhớ lắm...”.
“AI LÀ ANH EM TÔI”
Sài Gòn đón cha với niềm vui dấn thân được hun đúc, nối tiếp kể từ dạo ấy. Khi chịu chức, cha không nghĩ đời mình gắn bó mật thiết với các việc xã hội, nhưng sự trải nghiệm ngắn ngủi bên người dân tộc năm xưa đã vẽ bước ngoặt cho một chọn lựa mới. Tại thành phố, cha gia nhập Tu hội Đắc Lộ vì cảm mến tinh thần của Thánh Gioan Tiền Hô. Năm 1978, cha mở ra chương trình “Ai Là Anh Em Tôi” (Lc 10,29) với nhiều dự án chăm lo, giúp đỡ người già cả, trẻ em đường phố, giáo xứ vùng sâu..., mà trọng tâm là hướng tới bệnh nhân phong và con em của họ.
![]() |
Sinh hoạt cùng với các em thiếu nhi |
Trước đó, khi đi thăm một số trại phong, nhiều dấu hỏi đã bật lên trong tâm trí cha. Sao mọi người lãng quên họ? Sao không ai an ủi, động viên những người anh em này? Đi tìm câu trả lời cho mình, cha chợt nghĩ đây cũng là vấn đề dành cho tất cả mọi người Công giáo. Anh em tôi không ai xa lạ, mà chính ngay những người cô thân, yếu thế bên đời. Vậy là chương trình hé nở và nhận được sự chung tay của rất nhiều người. Dấu chân người mục tử bắt đầu in khắp các trại phong từ Nam chí Bắc như Thanh Bình (quận 2, nay không còn), Phước Tân, Bình Minh (Đồng Nai), Bến Sắn (Bình Dương), Tuy Hòa (Phú Yên), Di Linh (Lâm Đồng), Quả Cảm (Bắc Ninh), Vân Môn (Thái Bình)... Nói như cha, nơi nào có “phong”, nơi đó có mình. Và những chuyến đi ấy diễn ra liên tục, không ngơi nghỉ.
Tại mỗi nơi ghé qua, cha cùng đoàn bác ái gởi trao những món quà vật chất, những giây phút an ủi tinh thần. Cám cảnh sự cô đơn, thiếu vắng tình thương của người bệnh nên mọi người hỏi thăm, lắng nghe điều họ chia sẻ. Vết thương thể xác đau nhức, họ có thể kêu rên, bật khóc nhưng sự tê buốt trong cõi lòng nào cất lên thành lời. Những lúc ấy, sự chân thành, cảm tình mà cha và đoàn mang đến như tia nắng sưởi ấm bao tâm hồn. Chưa hết, cha còn hỗ trợ sách vở, quần áo, học bổng cho con em bệnh nhân phong trong việc học tập. Bản thân mặc cảm, lo sợ người khác kỳ thị nên các em chỉ quẩn quanh trong trại cùng cha mẹ, trong bốn bức tường kìm hãm nhu cầu vui chơi, học tập tuổi thơ. Không đành lòng, cha nhờ các trường tiếp nhận các em. Vì chúng đâu có tội tình gì. Cứ dịp lễ tết, cha lại đến sinh hoạt, phát quà. Luôn luôn vậy.
![]() |
Tổ chức cứu trợ ở Miền Tây |
Có những đợt đi Bắc trúng lúc trời lạnh cóng nhưng chân cha vẫn đều bước, miệng vẫn cười, lòng tận tâm vỗ về những người khốn khổ đang chống chọi với bệnh phong. Trót mang tình yêu sâu nặng với người khổ đau, cha Quý tâm niệm: “Tôi tin rằng điều gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim. Mình cho họ một nhưng nhận lại vô kể. Họ ấm lòng, cảm động còn mình thấy vui, hạnh phúc vô song và học được nhiều thứ về nghĩa tình”.Là người “tham lam”, vòng tay cha, ngoài ấp ủ, bảo bọc người phong, mấy năm qua còn dang rộng, “ôm” lấy người khốn khó khắp muôn phương. Một nhà dưỡng lão ở Bình Phước đã luôn rộn ràng mỗi khi cha tới thăm, dâng lễ và giải tội. Tại giáo xứ Cái Rắn, Cái Cấm (Cà Mau), đoàn của cha cũng kịp thời cứu trợ xuồng, lương thực, mùng mền trong cơn bão năm 1997. Hay thăm các xứ vùng xa của An Giang, Tiền Giang vào mùa mưa lũ, phải ngồi trên ghe phát quà vì nhà thờ cũng ngập. Chuyện ấy qua lâu nhưng mãi là dấu ấn đậm nét trên bước đường mục vụ.
Nay, tuổi 76 không cho phép cha đi nhiều như trước nhưng tinh thần bác ái vẫn hãy vẹn nguyên. Cha lui về hậu trường âm thầm hướng dẫn, dìu dắt thế hệ mới trong vai trò linh hướng Caritas của hạt Tân Sơn Nhì. Là cộng sự đắc lực nhiều năm, ông Nguyễn Quyết Tiến, trưởng ban Caritas giáo hạt cho biết:“Cùng đi, cùng làm việc nhiều với cha, tôi nhận ra lòng thương yêu to lớn mà ngài dành cho mọi người, từ già tới bé, tựa hình ảnh người mụctử nhân lành luôn vác chiên trên vai”.
Năm sau là tròn 50 năm linh mục, nhìn lại tháng ngày phục vụ, cha chỉ khiêm tốn bảo:“Nhờ Chúa cho mình sức khỏe mới làm được này kia!”.
Phú Khang
Bình luận