1.
Ắt hẳn nhiều người từng có dịp đi chơi nơi khu du lịch Xẻo Quít (Đồng Tháp). Không khí thoáng đãng, mát rượi. Làm nghề báo, thành thử những nơi như Xẻo Quít không còn lạ gì hết. Tôi lại viết trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, ưa tìm tòi “chữ nghĩa”, không khỏi thắc mắc sao gọi “Xẻo”, là một “thẻo” gì đó chăng?
Kỳ thực, theo “Đại Nam quấc âm tự vị” của Paulus Của, phân định rõ rành: XẼO (dấu ngã) 沼 là con rạch nhỏ (chú ý: trong ký tự 沼 có “bộ thủy” 氵thuộc về nước); trong khi đó, XẺO (dấu hỏi) 刟 nghĩa là cắt bớt.
Viết đúng, phải là “XẼO Quít”.
Nhưng người miền Nam thường mắc lỗi phát âm không phân biệt thanh điệu, như thanh điệu dấu ngã đọc thành thanh điệu dấu hỏi. Người trong Nam quen đọc thành dấu hỏi “Xẻo” rồi viết như vậy luôn (lẽ ra gọi “Xẽo”). Đây là điều oái ăm, nhưng … oái ăm trong ngôn ngữ thì không dễ sửa chút nào.

2.
Vấn đề phát âm của vùng miền ảnh hưởng đến cách viết. Như câu chuyện lẫn lộn giữa “sử dụng” và “xử dụng”.
Nói nào ngay, “sử”, “xử” đều có gốc gác là âm Hán - Việt. Ngặt cái, trong chữ Hán, có nhiều ký tự khác nhau mà đồng âm (âm Hán - Việt); rồi mỗi ký tự lại có nhiều nghĩa, nếu thiếu chú ý là dễ rơi vào “râu ông cắm cằm bà”.
Chẳng hạn, cùng đọc “sử” mà có các ký tự 史 (trong “lịch sử”), 駛 (nghĩa là “ngựa chạy nhanh”, “lái xe, tàu thuyền”), và ký tự 使 là ký tự được đề cập trong bài này.
Cùng đọc “xử” mà có ký tự 杵 (nghĩa là “cái chày”), và ký tự 處 là ký tự được đề cập trong bài này.
Trong Đại Nam quấc âm tự vị (Huỳnh Tịnh Của) và nhiều từ điển nữa, chú ý: hết thảy từ điển đều ghi “sử dụng” 使用 (âm Hán - Việt), khi chuyển qua Nam âm (thuần Việt) gọi là “DÙNG”. Gọn bâng.
Như nêu trên, “SỬ” ở đây được viết 使 . Nhưng có trang web, trên mạng, ghi “sử” là... 駛, là sai trật quá sức, bởi 駛 nghĩa là “ngựa chạy nhanh”, “lái xe, tàu thuyền”!
Trong khi đó, “XỬ” xài ký tự khác 處 nghĩa cũng khác, là động từ chỉ lối hành xử, ứng xử của con người trong xã hội. Ta hay nói “cư xử” 居處, “xử trảm” 處斬 ...
Giữa “SỬ” và “XỬ”, nghĩa khác nhau, đâu ra đó. Nên trong các từ điển đều ghi “SỬ DỤNG” (使用), không “xử dụng”.
Tôi không khỏi thắc mắc, vì sao “SỬ dụng” lại có người nhầm lẫn ghi thành “xử dụng”? /s/ bị nhầm qua /x/?
Trong phát âm của nhiều người ngoài Bắc (không phải tất cả), âm /s/ đọc thành /x/, nói quen nên khi viết cũng “x” luôn. Người gốc Bắc vào Nam sinh sống, kể cả hồi trước năm 1975, cũng mắc phải cách phát âm rồi viết như vậy, viết luôn trong sách (nên có người miền Nam đọc sách rồi viết thành “x” là vì vậy).
3.
Còn nữa, “chia sẻ”, “chia xẻ”? Chữ nghĩa trong tiếng Việt chúng ta, tuy “nhức đầu” chút chút, nhưng thú vị.
“XẺ”, trong “chia xẻ”, là từ toàn thể tách ra các phần tử nhỏ hơn, như “cưa xẻ”, “chia xẻ thịt cá”. Tức, khi “XẺ” thì kết quả sau đó là ít đi, giảm đi.
“XẺ” thuộc về Nam âm (thuần Việt), được viết bằng chữ Nôm: 𨦁 (khi chúng ta chưa dùng chữ Quốc ngữ).
Còn “SẺ” (trong “chia sẻ”), cũng thuộc Nam âm (thuần Việt), viết bằng chữ Nôm khác, là 𢩿, nghĩa cũng khác!
“SẺ” được dùng trong cách nói như “chia sẻ tri thức”, “chia sẻ bài viết” ... Khi “SẺ”, trong “chia sẻ tri thức” thì tri thức có bị giảm đi, ít đi không? Không. Mà kết quả sẽ là cộng hưởng.
Mạn phép đưa hai ví dụ sau, cho tỏ tường.
Ví dụ 1: Một tác giả có 1.000 cuốn sách, phát hành chia XẺ được 900 cuốn => kết quả tác giả chỉ còn 100 cuốn (hụt đi, giảm đi). Nhưng, lượng tri thức được chia SẺ thì tăng lên, chí ít tăng thêm 900 người đọc (và còn nhiều hơn nữa).
Có thể nói: Chia XẺ dùng cho những vật hữu hình. Chia SẺ dùng cho những giá trị vô hình, giá trị tinh thần.
Ví dụ 2: Chúng ta nói, “chia ngọt SẺ bùi”, “chia SẺ niềm vui”, “chia SẺ nỗi buồn”. Niềm vui, nỗi buồn được chia SẺ, tức tăng thêm SỰ ĐỒNG CẢM trước niềm vui, nỗi buồn của ai đó.
Chớ không phải... “chia xẻ nỗi buồn” (dùng “xẻ”) để cho bớt buồn; ở đây - nhấn mạnh - “chia sẻ” (dùng “sẻ”) là tăng thêm sự đồng cảm trước nỗi buồn; còn nỗi buồn có bớt hoặc còn buồn thảm thê hơn nữa là tùy vào tâm lý của chủ nhân nỗi buồn.
Nữa, vì sao “chia sẻ tri thức” lại có người ghi thành ... “chia xẻ tri thức”? /s/ bị nhầm qua /x/? Trường hợp này cũng y chang trường hợp “sử dụng” thành “xử dụng” nêu trên. Do phát âm của vùng miền ảnh hưởng đến cách viết.
Dù sao, trong tự điển đã rạch ròi hai cách viết “chia SẺ”, “chia XẺ”, không nên dùng “nhập cục” làm một.
*
Làm nghề viết báo là sống bằng cái nghiệp dùng chữ dùng nghĩa. Vì vậy lúc này lúc kia phát hiện ra những điều oái ăm, xin ghi lại. Nói nào ngay, oái ăm trong ngôn ngữ thì… không dễ sửa chút nào.
“NÔM” NGHĨA LÀ GÌ?
Trong bài “Oái ăm trong chữ nghĩa”, có nói đến Nam âm, được ghi bằng chữ Nôm. Vậy NÔM nghĩa là gì? Cũng thường được nghe giải thích, “Nôm” là tiếng của người phương Nam (nước Việt phương Nam, để phân định với người nước Trung Hoa là phương Bắc), thậm chí còn nhấn mạnh “Nôm” là “Nam”. Bởi NÔM 喃, trong ký tự này có “nam” 南, nên cách giải thích “nôm” = “nam” cũng bởi dựa theo bề nổi của mặt chữ mà ra.
Tuy nhiên, giải thích như vậy gặp phải thắc mắc: nếu “nôm” là “nam”, vậy sao không gọi “chữ NAM” cho rồi, mắc gì gọi “chữ Nôm”?
Chúng ta vẫn thường có cách nói gọi là “nói nôm”, nghĩa là nói mộc mạc, không kiểu cách và quy phạm. Rồi, “xin diễn nôm như sau...”, nghĩa là xin diễn giải những điều chung nhứt, dễ hiểu (dễ lĩnh hội) chớ không quá tỉ mỉ.
Tôi tìm đến “Đại Nam quấc âm tự vị” của Huình Tịnh Của, trong đó giải thích “Nôm” nghĩa là thổ âm (là tiếng bản địa). Chằng hạn, trong đời sống ngôn ngữ ở vùng núi phía Bắc có “Nôm Tày”, nghĩa là tiếng của người Tày bản địa.
Trong “Đại Nam quấc âm tự vị”, “NÔM” còn có nghĩa này nữa thiệt ly kỳ, bất ngờ: “nôm vợ” (喃 𡢼)! Khi ai đó chịu bảo bọc người lỡ mang thai (kêu bằng là “không chồng mà có con”), đưa về làm vợ hẳn hoi, gọi là “nôm vợ”.
Mới hiểu rằng, đừng trói một chữ chỉ có mỗi một nghĩa, một chữ mang nhiều nghĩa là điều bình thường. NÔM, như “diễn nôm”, “nôm vợ”... thì không dính dáng gì đến cái gọi là “(phương) nam” cả.
Liên quan đến hiện tượng ngôn ngữ: chữ “NÔM”, tiếng “NÔM” - ở đây, nghĩa là tiếng thổ âm (bản địa). Tiếng bản địa (tạo thành nền tảng, tạo thành “basic words” theo cách phân định trong ngành ngôn ngữ học) của người Việt, tức là “tiếng Nôm” của người Việt./.
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận