Thành phục: Sau lễ nhập quan, gia đình người quá cố sẽ mặc đồ tang, nghi thức này được gọi là “thành phục”. Người Công giáo nhìn chung vẫn giữ tang phục theo lối truyền thống, nghĩa là quần áo và khăn đeo được làm bằng vải xô trắng. Nếu người mới mất có cháu cố (chắt) thì những người ấy sẽ chít khăn vàng, còn con của cháu cố ấy (chút) sẽ chít khăn đỏ. Cũng có nơi, cả chắt và chút đều chít khăn đỏ.
Đeo tang cho cây cối, vật nuôi: Một số gia đình Công giáo gốc Bắc ở giáo phận Xuân Lộc vẫn giữ tục đeo tang cho cây cối, vật nuôi từng gắn bó với người quá cố. Tập tục này, nếu chỉ bắt nguồn từ tâm lý tiếc thương thì hoàn toàn có thể thông cảm được. Nhưng nếu xuất phát từ niềm tin dân gian rằng việc không đeo tang cho cây cối, vật nuôi sẽ khiến chúng “theo chủ” sang cõi âm thì nên loại bỏ dần để tránh làm phương hại đến đức tin Công giáo.

Thiết linh tọa: nghĩa là sửa soạn bàn thờ. Sau khi các thành viên trong gia đình đã mặc tang phục thì đặt một chiếc bàn thấp phía trước linh cữu, bày bát hương, di ảnh, bảng ghi tên thánh, hoa và nến. Bên cạnh bàn thường là thùng đựng tiền phúng điếu. Ngoài ra, có nơi còn đặt thêm một cây thánh giá hoặc tượng Chúa chịu nạn nho nhỏ và một bình đựng nước thánh.
Cáo phó: Trong Đất lề quê thói, Vũ Văn Khiếu ghi nhận rằng ngày trước, khi phương tiện thông tin chưa phát triển, tang gia thường phải viết nhiều bản cáo phó để gởi đi khắp nơi. Ngày nay, nhờ sự phát triển của công nghệ, tin buồn có thể truyền đi một cách nhanh chóng, nên người Việt chỉ còn viết một tờ cáo phó thật lớn treo trước cửa nhà để khách đến phúng điếu tiện đọc. Người Công giáo Việt Nam cũng duy trì việc viết cáo phó theo cách giản lược ấy, phù hợp với đời sống hiện đại.
Phát tang: Từ lúc phát tang cho đến khi hoàn tất việc an táng, cờ tang sẽ được treo trước nhà, ở đầu đường, đầu ngõ… để báo cho người qua lại biết. Đây là phong tục phổ biến khắp Việt Nam, song không rõ là đã có từ bao giờ. Theo Thực hành Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam của Nguyễn Hạnh, cờ tang ngày nay thực chất là một biến thể của cờ ngũ hành - loại cờ vốn được sử dụng trong các lễ hội truyền thống. Chỉ khác ở chỗ màu sắc được giản lược thành những cặp trầm buồn như đen - trắng hay tím - trắng, thay vì có đủ năm màu đỏ, vàng, trắng, xanh lục, xanh lam/đen. Riêng với cộng đồng Công giáo thì ở giữa lá cờ còn có thêu một cây thánh giá.
Phúng điếu: Kể từ khi phát tang, thân nhân của người mất phải túc trực bên linh cữu để đón tiếp khách đến phúng điếu. Người thân thiết với tang gia thường mang theo trướng hoặc vòng hoa, còn đa phần sẽ bỏ phong bì để hỗ trợ chi phí tang lễ. Với người Công giáo thì người đến phúng điếu còn đọc kinh và cầu nguyện cho linh hồn người vừa mới qua đời. Đây là một nét đẹp văn hóa, thể hiện tình cảm và sự gắn kết của cộng đồng, mà người Công giáo Việt Nam vẫn duy trì. Song, phong tục này cũng chịu ảnh hưởng của tâm lý trọng danh vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt, xem đám tang có đông người đến viếng là đáng hãnh diện, là mở mày mở mặt. Từ đó lại sinh thêm chuyện phải đối đãi với khách thế nào cho khỏi bị mang tiếng, phải dựng rạp, đặt bàn, lo trà bánh, cơm nước cho người đến phúng điếu và canh linh cữu. Chính từ tâm lý trọng danh sinh sĩ diện ấy mà việc “kẻ có đã vậy, kẻ không có cũng cố đi vay mượn cầm nhà bán ruộng, để trả nợ miệng và lấy sĩ diện với đời” bị Phan Kế Bính phê phán từ thế kỷ trước cũng vẫn còn có thể nhìn thấy.
Tại các đám tang Công giáo, thời gian phúng điếu thường chỉ kéo dài hai đến ba ngày. So với đám tang truyền thống thì đã giản tiện hơn rất nhiều, vì thuở trước có khi thi hài được quàn tới hàng tháng, hàng năm trời.
6.3 Thánh lễ và nghi thức an táng
Theo Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, người Việt xưa có tục rước quan tài từ nơi quàn sang tổ miếu trước khi đưa đi an táng, gọi là chuyển cữu. Về sau, lễ này được giản lược thành rước hồn bạch là hình nhân làm từ tấm vải trắng phủ lên mặt thi hài lúc khâm liệm. Với những gia đình không có tổ miếu, người ta chỉ xoay quan tài một vòng rồi đặt lại chỗ cũ, sau đó thì tiến hành phát dẫn (đưa đi an táng). Ngày nay, người Việt đã không còn giữ tục chuyển cữu mà chỉ chọn ngày giờ rồi làm lễ động quan, đưa tang và an táng. Riêng với người Công giáo, nghi thức này được thay thế bằng thánh lễ tiễn biệt, trang nghiêm và long trọng hơn tục lệ truyền thống.
Nghi thức động quan, tức là việc di chuyển linh cữu từ nơi quàn đến nhà thờ giáo xứ, thường được tiến hành nhanh chóng, sử dụng phương tiện giao thông hiện đại để đảm bảo về mặt thời gian. Khi đến nhà thờ, linh cữu được rước vào theo quy định tại điều 35 của Nghi thức An táng (Ordo Exsequiarum, 1969), nghĩa là có thánh giá và linh mục chủ tế đi trước linh cữu. Ở Việt Nam thì xen giữa thánh giá và linh mục chủ tế còn có thêm đoàn rước và đội kèn trống. Theo sau linh mục chủ tế là nhóm con cháu của người quá cố có nhiệm vụ cầm bảng tên thánh, di ảnh, bát hương và cây thánh giá ghi đầy đủ thông tin của người ấy (tên thánh, tên thật, ngày sinh, ngày mất, quê quán) rồi mới đến linh cữu. Sau cùng là tang quyến và cộng đoàn.
Thánh lễ tiễn biệt là nghi thức riêng của Công giáo nhưng vẫn chất chứa tinh thần dân tộc. Bên cạnh các nghi thức được cử hành theo quy định trong Sách lễ Rome, thì trong thánh lễ tiễn biệt, người Công giáo Việt Nam vẫn duy trì các truyền thống đội khăn tang, đặt bàn thờ (linh tọa) phía trước linh cữu. Đồng thời, qua những lời kinh, bài giảng và thánh ca, thánh lễ không chỉ ôn lại những tín lý đức tin về sự chết và sự sống lại trong Đức Kitô, cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất, mà còn nhắc nhở về đạo hiếu, về tinh thần tương thân tương ái là những giá trị bền chặt trong văn hóa Việt Nam. Sự hiện diện và hiệp thông của cộng đoàn trong thánh lễ cũng là nguồn an ủi lớn lao của tang gia, góp phần củng cố sợi dây gắn kết cộng đồng.
(còn nữa)
KỲ PHONG
Bình luận