* Hiện diện các thanh điệu trong tiếng Bồ, tiếng Việt
1.
Trong chữ Hán có nhiều trường hợp khác biệt, tỉ như 父 (âm Hán-Việt: “phụ”), 母 (âm Hán-Việt: “mẫu”), “phụ mẫu” là ba mẹ. Nhưng, nếu muốn nói thẽ thọt, thương ơi là thương: “mẹ ơi”, “ba ơi” thì trong chữ Hán không có âm nào đọc lên là “mẹ”, là “ba” hết trơn! Thành thử tiền nhân người Việt mới sáng tạo ra chữ Nôm, để ghi lại hết thảy quốc âm (Nam âm).
Chữ Nôm viết 爸 , đọc là “ba” (trong “ba mẹ”); chữ Nôm viết 媄, đọc là “mẹ”. Đọc lên nghe tiếng “ba”, tiếng “mẹ”, ngọt ngào biết mấy.
![]() |
Hai vị giáo sĩ Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes (Alexander Rhodius), tác phẩm điêu khắc của Phạm Văn Hạng |
2.
Chữ Nôm viết 爸, đọc là “BA” (trong “ba mẹ”).
Chữ Nôm viết 婆, đọc là “BÀ” (trong “bà cụ già”).
Chữ Nôm viết 伯, đọc là “BÁ” (trong “bá tước”).
Chữ Nôm viết ? , đọc là “BẢ” (trong “bả vai”).
Chữ Nôm viết 粑, đọc là “BÔ (trong “bã rượu”).
Chữ Nôm viết 把, đọc là “BẠ” (trong “bậy bạ”).
Thấy gì? BA - BÀ - BÁ - BẢ - BÃ - BẠ, chỉ khác nhau bởi 6 thanh điệu “ngang”, “huyền”, “sắc”, “hỏi”, “ngã”, “nặng” mà tạo ra 6 nghĩa khác nhau. Đây là đặc trưng thú vị, là sự độc đáo của tiếng Việt.
Tuy nhiên, viết bằng chữ Nôm (cũng theo tuần tự): 爸 - 婆 - 伯 - ? - 粑 - 把, chúng ta phải viết bằng 6 mặt chữ Nôm không giống nhau, trong khi - về mặt phát âm tiếng Việt - kỳ thực chỉ khác nhau về thanh điệu mà thôi (“ba”, “bà”, “bá”, “bả”, “bã”, “bạ”). Chữ Nôm, cũng như chữ Hán, đều không tài nào giúp nhận diện đặc trưng về thanh điệu của tiếng Việt!
3.
Linh mục người Bồ Đào Nha Francisco de Pina đến Hội An vào năm 1617 để truyền giảng Công giáo. Vị linh mục này là một người rất giỏi về ngành ngữ âm học, nhờ vậy cha phân tích được đâu là nguyên âm, đâu là phụ âm trong tiếng Việt (trong khi đó, chữ Hán lẫn chữ Nôm bao đời học chữ nào thì chỉ biết đọc chữ đó mà thôi, hoàn toàn không có ý niệm về nguyên âm, phụ âm). Chẳng hạn, với 6 mặt chữ Nôm dẫn trên, Francisco de Pina nhận ra “cùng vần” mà chỉ khác nhau về thanh điệu. Trong những bức thư gởi cho bề trên Dòng Tên, ngài nhận xét: “Việc học hỏi các thanh điệu là rất quan trọng, vì nếu thiếu chúng, chúng ta khó có thể hiểu được ngôn ngữ của người dân An Nam”; “Các thanh điệu dường như là hồn cốt trong ngôn ngữ An Nam, vì vậy, cần phải hết sức chú tâm để hiểu cho bằng được”.
![]() |
4.
Tiếng Pháp, tiếng Anh gần như là những ngôn ngữ không có thanh điệu, tức là nếu lên bổng hoặc xuống trầm của một chữ (word) thì không làm thay đổi nghĩa của chữ. Trong khi tiếng Việt xuống trầm (tỉ như “dấu huyền”, “dấu nặng”), hoặc nói lên cao (tỉ như “dấu sắc”, “dấu hỏi”), nghĩa của chữ trở nên khác nhau.
Người Pháp, người Anh học tiếng Việt gặp khó nhứt là thanh điệu. Nếu những thế hệ giáo sĩ đầu tiên là người Pháp chẳng hạn, họ sẽ khó có thể nghĩ ra cách ký âm tiếng Việt bằng hệ chữ Latin mà có được thanh điệu.
Trong khi đó, tiếng Bồ Đào Nha thì không xa lạ cho lắm với những ngôn ngữ có thanh điệu. Dù không gồm đủ 6 thanh điệu như tiếng Việt, nhưng tiếng Bồ cũng có dấu “sắc”, dấu “ngã” (như Água: nước, Coracão: trái tim), rồi cả dấu “mũ” (như Lâmpada: bóng đèn)…
Phải nói thật là cơ duyên kỳ ngộ!
Linh mục Francisco de Pina đã dùng khuôn nhạc để phân tích sự lên bổng xuống trầm giữa các chữ “ba”, “bà”, “bá”, “bả”, “bã”, “bạ”. Đây là tiến trình để hình thành những ký hiệu về dấu thanh điệu sau đó (dấu nặng, dấu hỏi, dấu sắc.v.v...).
Sự tương cận về thanh điệu giữa tiếng Việt với tiếng Bồ (so với những ngôn ngữ châu Âu khác) đã giúp các linh mục Bồ Đào Nha chỉ tới năm 1619-1620 đã thành hình được một bộ văn tự ký âm cơ bản cho tiếng Việt. Quả là một kỳ tích! Bởi vì việc tạo ra một hệ thống văn tự là rất khó, lâu dài, thậm chí cả trăm năm mới có thể có được bộ chữ mới.
Linh mục Đắc Lộ (Alexander Rhodius) sau đó cũng học bộ chữ ký âm tiếng Việt sơ khởi từ linh mục Francisco de Pina; soạn tự điển cũng dựa trên tiếng Bồ (không có tiếng Pháp).
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận