Sắc thái Nam trong lễ hội, nghi lễ Công giáo
Nghi lễ đón Tết Nguyên đán của Công giáo Việt Nam
Nghi lễ này cũng mang những nét đặc thù của việc hội nhập và chắt lọc văn hóa. Người có công đầu là giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Trong cuốn Lịch sử Vương quốc Ðàng Ngoài, Alexandre de Rhodes viết: “Tới ngày đầu năm, theo tục lệ lương dân, thường có những cúng bái mê tín dị đoan trong 3 ngày Tết, chúng tôi truyền cho giáo dân làm những việc đạo đức trong 3 ngày này; để thay thế cái hộp treo ở đầu cây nêu cao dựng ngay ở cửa nhà như chúng tôi đã nói ở quyển một, thì chúng tôi khuyên họ đặt cây Thánh giá; họ làm theo. Thế là trong khắp phố phường trong kinh thành người ta xem thấy biểu hiện đáng kính của việc cứu rỗi được dựng cao vót quá mái nhà làm cho ma quỷ sợ hãi và các thiên thần vui mừng. Chúa (chỉ Chúa Trịnh) cũng nhận thấy khi vào ngày đầu năm, ngài đi qua phố, trong đám rước long trọng đã kể ở trên, thấy Thánh giá cao chót vót thì ngài nói: “Ðây là biểu hiện của giáo dân”. Trong ba ngày đầu, chúng tôi cho huấn dụ và cho giữ như sau: Ngày mồng Một Tết kính công việc tạo thành và gìn giữ (muôn loài), kính dâng Thiên Chúa Cha. Ngày mồng Hai, nhận biết ơn cứu chuộc, cao cả khôn sánh, kính dân con Thiên Chúa và ngày mồng Ba, khiêm tốn cảm tạ Chúa Thánh Linh vì ơn được gọi vào đạo Ðức Kitô. Và không ai là không hăm hở làm các việc này, không ai là không vui mừng sung sướng”.
![]() |
Những nội dung trên được duy trì cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. Sau đó một số nội dung mới được đưa vào lễ ba ngày Tết. Ðêm 30, các giáo xứ được phép làm lễ đêm giao thừa, sau đó là lễ tân niên. Nếu là ngày thứ sáu thì được chuẩn khỏi kiêng thịt. Nội dung lễ ngày mồng Một Tết là cầu bình an cho năm mới; ngày mồng Hai Tết là ngày lễ kính nhớ, tổ tiên, ông bà, cha mẹ (tiền nhân); ngày mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm.
Trong một bức Thư chung gởi bổn đạo địa phận Tây Ðàng Ngoài (trong đó có Hà Nội) đề ngày 8.5.1805, Ðức Giám mục địa phận có nói về ngày Tết Nguyên đán. Nội dung Thư chung cho rằng: Ngày Tết là dịp anh em họ đương đi thăm nhau, mừng tuổi nhau, ăn uống cùng nhau, những thói ấy là thói lành..., kẻ có đạo phải nhớ rằng chỉ có một cách thảo kính cha mẹ tổ tiên cho phải phép và sinh ích cho linh hồn người là dâng việc lành phúc đức đọc kinh cầu nguyện chỉ cho người; nhân vì lẽ khi hội họp nhau ăn giỗ, ăn Tết thì nên đọc ít nhiều kinh trước, đoạn mới ăn uống với nhau.
Tài liệu điền dã thu thập được ở địa phận Phát Diệm cho thấy, từ 1945 trở về trước, xứ đạo Lưu Phương đón ba ngày Tết với nội dung: Mồng Một Tết - Kính thờ Ðức Chúa Cha; mồng Hai Tết - Kính thờ Ðức Chúa Con và Chúa Thánh Thần; mồng Ba Tết - Cầu cho ông bà tổ tiên. Ba ngày Tết xứ Phát Diệm đều tổ chức đi kiệu Ðức Bà. Vào tiết Xuân (từ ngày 2 đến ngày 10 Tết) người Công giáo Lưu Phương đi tảo mộ. Cũng như người Việt không Công giáo, người Việt Công giáo háo hức đón chờ Xuân sang, Tết đến. Trong nhà thờ Công giáo ở một số xứ đạo vùng đồng bằng Bắc Bộ tổ chức tế giao thừa. Sáng sớm mồng Một Tết, người Công giáo vẫn giữ tập tục xông đất, chúc tụng nhau những điều tốt lành theo phong tục truyền thống của người Việt.
![]() |
Tháng Mười, tháng Mân Côi
Trong phụng vụ của Giáo hội, tháng Mười - tháng Mân Côi ở Việt Nam cũng có những nghi lễ dần dần chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam.
Tín hữu Công giáo Việt Nam có thói quen đeo tràng hạt trước cổ. Khi đọc kinh, họ thường lần tràng hạt. Vào khoảng thế kỷ XVII, có lẽ các giáo sĩ dòng Tên là người đưa chuỗi Môi Khôi vào Việt Nam. Việc lần chuỗi Môi Khôi cũng dần dần hình thành. Trong tháng Mân Côi, giáo dân đến nhà thờ, ngoài việc đọc kinh, lần hạt Môi Khôi, còn đọc Vãn Ðức Bà Mân Côi. So với Vãn hoa thì Vãn Mân Côi đã bị thất truyền. Tác giả Lê Ðình Bảng trong bài “Tháng Mười ngắm vãn Ðức Bà Mân Côi”1 giới thiệu một bản vãn Mân Côi có tên là: Vân Côi thánh nguyệt tán tụng thi ca (còn gọi là vãn Mân Côi, ca Mân Côi). Theo ông Lê Ðình Bảng, tác giả của bản kinh là Phạm Trạch Thiện. Ông sinh năm 1818, nguyên quán Cốc Thành, Nam Ðịnh, đỗ cử nhân. Ngoài “Văn Côi thánh nguyện tán tụng thi ca”, cụ cử Thiện còn là tác giả của những áng thơ kinh Công giáo có giá trị, như “Nghinh hoa tụng kỳ chương”, tức “Vãn dâng hoa” và “Kinh cầu Ðức Bà diễn ca”.
Văn Côi thánh nguyệt tán tụng thi ca gồm 252 câu đan xen giữa thất ngôn, song thất lục bát. Căn cứ vào nội dung, tác giả Lê Ðình Bảng đã phân chia bản văn thành những phần, những đoạn để tiện việc đọc và nắm ý, như sau.
Phần I - Dẫn nhập (từ câu 1 - 32).
- Dẫn (1 - 20): Lý do thánh Ða Minh soạn ra kinh Mân Côi.
- Nhập (21 - 32): ơn ích của kinh Mân Côi.
Phần II - Văn Côi nhập ngũ sự thi ca (33 - 216).
- 5 Sự Vui (33 - 96).
- 5 Sự Thương (97 -156).
- 5 Sự Mừng (157 - 216).
Phần III - Tổng tạ (217 - 252) cám ơn.
Theo truyền thống, mầu nhiệm Mân Côi được chia làm 3 phần: 5 Sự Vui, 5 Sự Thương, 5 Sự Mừng. Trong Mùa Chay có ngắm 15 sự thương khó, thì trong tháng Mân Côi có phép ngắm Rôsa Ðức Bà. Người đọc vãn Mân Côi phải có giọng đọc ngân nga, luyến láy, khi vui, lúc lại bi ai lâm khốc biệt hành. Giọng đọc theo từng phần, từng lớp.
Ðêm Gỉáng Sinh kỷ niệm Chúa Cứu Thế ra đời ở một số xứ đạo thuộc Thừa Thiên - Huế có lối hát bảo mục đồng, có đàn, sáo đệm. Nội dung kể về sự tích Chúa ra đời, kêu gọi các trẻ chăn trâu, đến thờ lạy Chúa Giáng Sinh.
Một số xứ đạo ở Tây Nguyên, giáo dân là người dân tộc thiểu số, sau lễ Giáng Sinh ở nhà thờ, trở về buôn làng đánh cồng chiêng, nhảy múa, uống rượu cần mừng Chúa giáng thế.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
_______________________________________________________
1 Lê Ðình Bảng: Tháng Mười ngắm “Vãn Ðức Bà Mân Côi”. Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 46, trang 83.
Bình luận