Có thương có hiểu Nam âm, mới không bị ám bởi lối diễn giải tùy tiện.
![]() |
1.
Mời độc giả đọc hai câu thơ (câu thứ 1307, 1308) trong Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm của thi hào Nguyễn Du:
Dưới trăng quyên đã gọi hè (??鵑㐌哙夏)
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông (頭墻焒榴 ? ? ? 葻)
Ở câu thơ thứ 1308, ba chữ “đầu”, “tường”, “lựu” thì đồng âm đồng nghĩa với âm Hán - Việt trong Hán tự; còn năm chữ “lửa”, “lập”, “lòe”, “đơm”, “bông” đều là chữ Nôm được chế tác không có trong Hán tự.
|
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Truyện Kiều), “bông” là Nam âm (ghi bằng chữ Nôm 葻), còn âm Hán - Việt gọi là “hoa”(花).
|
2.
Trên mạng, kể cả một số sách báo, tràn lan lối diễn giải như thế này: “bông là do kỵ húy tên vợ vua Minh Mạng (“Hoa”, Hồ Thị Hoa) nên người miền Nam không đọc “hoa” mà sửa thành bông”. Đây là lối suy diễn sai trật quá sức!
2a) Suy diễn vội vã và cẩu thả như vậy sẽ sai lung tung, là bởi vì dựa theo âm đọc đánh vần của chữ Quốc ngữ.
Tên người vợ đầu của vua Minh Mạng đâu phải là đánh vần “h-o-a” mà kỵ húy, thời xưa, được dựa vào danh tính ghi bằng chữ Hán. Thành thử cần phải biết “Hoa”, tên của vợ vua Minh Mạng, được viết bằng ký tự Hán ra sao, đặng biết đường mà tránh, không phạm húy.
2b) Trong Hán tự, có tới 22 ký tự viết khác nhau nhưng đều đồng âm Hán - Việt đọc là “hoa” (với hơn 50 nghĩa khác nhau).
“Hoa”, trong họ tên bà Hồ Thị Hoa (胡氏華), được viết: 華 - nghĩa là “tinh hoa” (“elite”). Như vậy, chỉ chữ “hoa” 華 này mới trở thành chữ cấm kỵ, không được phạm húy.
Ở ngoài Huế bấy giờ có chợ Đông Hoa (東華), do “Hoa” ở đó trùng với ký tự 華 trong tên vợ vua Minh Mạng, nên phải kiêng kỵ, phải đổi sang ký tự khác. “Đông Hoa” được sửa thành “Đông Ba” 東 巴 (nghĩa là ở cạnh hướng Đông), và cái tên chợ Đông Ba được dùng cho đến nay.
2c) Còn “hoa” khoe sắc khoe hương, viết: 花 - viết khác và mang nghĩa khác hoàn toàn với ký tự “hoa” 華 trong tên vợ vua - thì không nằm trong quy định của tục kỵ húy!
![]() |
3.
Trởlại với Truyện Kiều. Tác phẩm này được sáng tác trong khoảng thời gian
sau năm 1814 và trước năm 1820. Mốc “năm 1814” là sau khi Nguyễn Du làm chánh sứ sang nhà Thanh trở về. Mốc “năm 1820” là thời điểm Nguyễn Du lại được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang (Gia Long từ trần) và cầu phong vương (cho Minh Mạng), nhưng Nguyễn Du bị bệnh rồi qua đời. Như vậy, chỉ sau khi Minh Mạng lên ngôi thì mới có lệnh kiêng húy bà Hồ Thị Hoa: việc kiêng húy “Hoa” 華, đã phân tích ở trên, không dính dáng gì đến “loài hoa” được ghi bằng ký tự 花.
3a) Truyện Kiều (sáng tác vào thời vua Gia Long, trước thời vua Minh Mạng ban lệnh kỵ húy…) là một minh chứng về sự am tường và tấm lòng của thi hào Nguyễn Du dành cho Nam âm.
… “Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông” (頭墻焒榴 ? ? ? 葻)
Ông chẳng phải người miền nam Đàng Trong, cách gọi “bông” chẳng phải phương ngữ trong nam đâu, mà đây chính là âm thuần Việt (Nam âm)!
3b) “Bông” được ghi bằng chữ Nôm (葻, không có trong Hán tự). Còn “hoa” đồng nghĩa với “bông”, từ đâu? “Hoa” là âm Hán - Việt của chữ Hán 花.
Nhân đây cũng xin nói thêm: “Trái” thuộc về Nam âm, được ghi bằng chữ Nôm (?), đồng nghĩa với “trái” là gì? Là “quả”, âm Hán - Việt của chữ Hán果.
Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ hàng ngày hiện nay, vẫn có lối nói chung là “bông hoa”. Mỗi khi nghe bà con mình vẫn nói “trái”, nói “bông”…, là biết Nam âm (thuần Việt) đang được giữ gìn, mà thương ơi là thương, thương đứt ruột.
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận