*Phường Lái Thiêu mới hình thành sau khi nhập các phường Lái Thiêu, Bình Nhâm và các khu phố Hòa Long, Tây thuộc phường Vĩnh Phú cũ.
Địa danh Lái Thiêu được để cập sớm nhất trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí: “Lái Thiêu, rạch ở bên bờ tắc…, ở cuối rạch có chợ thôn Bình Nhan, tục gọi là chợ Lái Thiêu…”. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong cuốn Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa (Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa - Vũng Tàu), thì trong địa bạ vào thời Minh Mệnh đã có những chỉ dẫn cụ thể, trong đó có các đơn vị hành chính được xác lập thuộc tổng Bình Chánh Thượng: Bình Nhan Thượng thôn, Phú Long thôn và Tân Thới Đông xã, đều ở xứ Lái Thiêu. Tên gọi Lái Thiêu cũng được đặt cho họ đạo (1849), quận (1956), huyện (1975), thị trấn (1994) và phường (2011).
Xứ Lái Thiêu là một vùng không xác định được ranh giới mà vào khoảng thời chúa Nguyễn và đầu triều Nguyễn, đã có một bộ phận đất đai và dân cư hợp thành ba đơn vị hành chính lấy tên là Bình Nhan Thượng, Phú Long thôn và Tân Thới Đông xã thuộc tổng Bình Chánh Thượng. Đến thời Pháp thuộc, địa danh xứ Lái Thiêu bao gồm vùng đất rộng lớn hơn, phía bắc lan đến An Sơn, Hưng Định, An Thạnh; phía nam đến tận Vĩnh Bình; phía đông giáp với vùng Dĩ An, Thủ Đức; phía tây giáp sông Sài Gòn. Các nhóm dân miền Trung đã sớm chọn nơi đây dừng chân khẩn hoang định cư.
Ý nghĩa từ tên gọi Lái Thiêu được nhiều học giả cho rằng có thể xuất phát từ chuyện một ông lái buôn tự thiêu mà ra. Nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trong Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam giải thích: “Lái Thiêu là ông lái gốm họ Huỳnh đã thiêu nhà vì say rượu”. Còn trong dân gian thì truyền miệng có tích kể rằng, một ông lái tên Theo tự bỏ tiền mua tre lá dựng lên một dãy trại để các thương lái tránh mưa nắng khi đưa hàng lên vùng này bán, dần dần ngày càng đông trở thành chợ, gọi là chợ Lái Theo (tức là chợ của ông lái Theo). Người bên Phú Long nhóm chợ thưa thớt hơn trước nên ghen ăn tức ở bèn cho người thiêu rụi chợ Lái Theo. Sau đó, người Tân Thới cất lại chợ trên nền chợ bị thiêu, từ đó gọi là chợ Lái Thiêu… Tóm lại, theo các tác giả kể trên, danh xưng Lái Thiêu bao gồm hai hàm ý: “Lái” mang nghĩa là lái buôn, thương lái. Và “Thiêu” mang nghĩa thiêu cháy với hành vi tự thiêu của ông lái họ Huỳnh hay chợ ông Theo bị phóng hỏa hoặc tên ngôi chợ mới được xây trên nền chợ cũ bị thiêu.
Người Công giáo có mặt ở vùng đất nay là Bình Dương khá sớm. Ngay dưới thời các chúa Nguyễn, cùng với Tân Triều (Biên Hòa), xứ Lái Thiêu của Bình Dương đã là họ đạo quan trọng trong tổng số 12 giáo hạt của xứ Nam Kỳ. Các địa danh như họ đạo Gò, họ đạo Ghe Tám đã xuất hiện từ xưa ở xứ Lái Thiêu, để chỉ hai họ đạo Lái Thiêu và Bình Nhâm. Họ đạo Lái Thiêu thành lập vào năm 1659, cơ sở Công giáo đầu tiên xây dựng ở Lái Thiêu có tên gọi là nhà thờ họ Gò (nay thuộc phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An). Năm 1782, giáo xứ chuyển đến vị trí mới (nay thuộc phường Bình Nhâm, thành phố Thuận An) và đổi tên thành nhà thờ Lái Thiêu. Trước đó, từ năm 1771, Đức cha Bá Đa Lộc đã cho dựng một nhà nguyện tại vùng chợ Cây Me (Lái Thiêu). Đến 1788, ngài cho chuyển 40 chủng sinh và Chủng viện từ Chantaburi (Thái Lan) về dựng tại Lái Thiêu và cử thừa sai Boisserand làm Giám đốc. Lái Thiêu trở thành cái nôi của Công giáo Nam bộ, nơi có nhiều Chủng viện, Thừa sai, chủng sinh và giáo dân. Sau đó, tháng 6.1792, Đức cha chuyển chủng viện ra Tân Triều (Đồng Nai). Đến năm 1798, lập Đại chủng viện ở Lái Thiêu, bấy giờ có được 24 Đại chủng sinh. Vai trò của Lái Thiêu càng trở nên quan trọng đối với Giáo hội ở miền Nam Đàng Trong. Cha Azémar là người xây ngôi nhà thờ mới Lái Thiêu tại vị trí hiện nay năm 1894 và mất sau khi khởi công một năm, vào ngày 9.6.1895. Người tiếp tục gánh vác công trình xây dựng này và đã hoàn tất vào năm 1897 là cha sở nhà thờ Lái Thiêu nhiệm kỳ 1895-1915, cha Ernest Verney. Trải qua gần 120 năm, nhà thờ vẫn còn giữ nguyên được nét cổ kính về kiến trúc.
*Phường mới An Phú hình thành trên cơ sở sáp nhập các phường An Phú và các khu phố Bình Phước A, Bình Phước B thuộc phường Bình Chuẩn cũ.
Làng An Phú được thành lập khoảng từ cuối thời vua Thiệu Trị đến đầu thời vua Tự Đức, thuộc Bình Thổ, huyện Bình An, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa. Địa giới của An Phú gồm phía tây giáp sông Sài Gòn; phía bắc giáp làng Phú Thuận, Phú Thứ; phía đông giáp Tương An và Cầu Định; phía nam giáp Tương An. An Phú là vùng đất thấp, khá bằng phẳng ven sông Sài Gòn, có hệ thống sông rạch chằng chịt cung cấp nguồn nước sinh hoạt và tạo thành sinh kế cho người dân qua việc đưa phù sa hình thành nên những đồng ruộng trù phú. Kênh rạch ở An Phú cũng giúp việc thông thương, buôn bán trong vùng trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn, có những địa điểm buôn bán sầm uất như bến Nhà Vuông. Từ bến Nhà Vuông, hàng hóa theo các đường mòn trong làng thông thương ra đường lớn rồi từ Thủ Dầu Một đi Phú Thứ hoặc Tây Ninh. Năm 1923, làng An Phú thuộc tổng Bình Phú, quận Bến Cát; còn thời điểm An Phú trở thành một ấp của thôn Tương An hiện chưa có thông tin nào được tìm thấy trong các sử liệu. Từ năm 1876 thì gọi là làng, thuộc hạt tham biện Thủ Dầu Một; năm 1900 thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. Làng An Phú sau năm 1975 thuộc ấp 2 của xã Tân An rồi phường Tân An trong TP Thủ Dầu Một. An Phú cũng là tên một đình làng cổ được xây dựng năm 1848, sập trong chiến tranh và xây lại sau năm 1975.
Tài liệu tham khảo:
- Địa danh ở Bình Dương (Tiến sĩ Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên)
- Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu)
- Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam (Nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa)
- Khái lược về địa danh Công giáo ở Bình Dương (Thạc sĩ Đinh Thanh Huy - Bảo tàng Bình Dương).
- Lược sử giáo xứ Lái Thiêu (lưu hành nội bộ)
MINH HẢI thực hiện
Bình luận