Nói cho chính xác: chữ Quốc ngữ chỉ là Latin hóa ký tự (bề mặt chữ cái). Trong khi đó, dùng chữ Hán thì tiếng Việt buộc phải “hóa” dưới tác động của Hán ngữ.
Ký tự biểu ý (Hán tự), ký tự biểu âm Latin đều là cái vỏ văn tự, còn “hồn cốt” nằm ở tiếng (nói) Việt. Văn tự lý tưởng nhứt, thích hợp nhứt là phải ghi được toàn bộ tiếng (nói) Việt. Chỉ là mượn cái vỏ văn tự Latin thôi, nhưng đã bị hiểu sai trật qua mệnh đề phát biểu như sau: “chữ Quốc ngữ là Latin hóa tiếng Việt”. Nhiều người vô tình cũng lặp lại như vậy, mà không biết mình đang lặp lại một mệnh đề vô nghĩa.
|
1.
Trước hết, cần hiểu “hóa” nghĩa là gì mà nhiều người nhiều nơi cứcó thói quen gọi “hóa” này “hóa” kia. “Hóa” (化) nghĩa là chuyển biến tính chất,thay đổivề chất,làm biến đổi. Dùng chữ Hán là Hán hóa tiếng Việt,được hiểu là tiếng Việt buộc phải “hóa”dưới tácđộng của Hánngữ:làm biến đổitiếng Việt vềngữ âm, không chỉ vậy, cònbiến đổicảngữ pháp.
Xin giải thích:
1a)Nếu phát âm tiếng Việt: “máu”, “thịt”, “ăn”, “uống”, “ngày”, “tháng”, “năm” - khi dùng Hán tự làm văn tự để ghi lại, chuyện gì sẽ xảy ra?
Hoàn toàn không có chữHán nào giữ lại cách phát âm “máu”, “thịt”, “ăn”, “uống”, “ngày”, “tháng”, “năm” trong tiếng Việt.Mà tiếng Việt chúng ta buộc phải biến đổi ngữ âm:“thịt” buộc phải đọc thành: “nhục” 肉 / “máu” buộc phải đọc thành: “huyết” 血 / “ăn” buộc phải đọc thành: “thực” 食 / “uống” buộc phải đọc thành: “ẩm” 飲 / “ngày” buộc phải đọc thành: “nhật” 日 / “tháng” buộc phải đọc thành: “nguyệt” 月 / “năm” buộc phải đọc thành: “niên” 年.
Những tiếng thuần Việt của chúng ta, như những dẫn chứng nêu trên,buộc phải biến đổitrở thành “âm Hán - Việt” (không còn giữ âm thuần Việt), một khi ghi bằng Hán tự.
Thêm ví dụ này nữa: bạn có thể thốt lên một cách bình thường “Mẹ, con yêu mẹ”, nhưng khi dùng Hán tự để ghi “媽媽, 我愛你”, câu nói bằng Nam âm (thuần Việt) gần gũi, ngọt ngào “Mẹ, con yêu mẹ” sẽ mấtđi, vì phảibiến âm khác đi(gọi là Hán - Việt): “Ma ma, ngã ái nhĩ”.
1b)Biến đổi ngữ pháp:
Khi thốt lên tiếng Việt“trời xanh”, “năm mới”, “phước lành”- yếu tố chính là “trời”, “năm”, “phước” đứng trước; yếu tố bổ nghĩa “xanh”, “mới”, “lành” đứng sau. Ngữ pháp tiếng Việt như vậy. Nhưng khi dùng chữ Hán để ghi, ngữ pháp tiếng Việt buộc phảibiến đổi,đảo ngượctheo ngữ pháp của tiếng Hán: “thanh thiên” 青天 , “tân niên” 新年, “thiện phúc”善福 - yếu tố chính là “thiên” (trời), “niên” (năm), “phúc” (phước) đứng sau, trong khi yếu tố bổ nghĩa “thanh” (xanh), “tân” (mới), “thiện” (lành) đứng trước. Ngữ âm và ngữ pháp của tiếng Việt đều không giữ được nguyên bản.
|
2.
Còn chữ Quốc ngữ, dùng văn tự biểu âm Latin thì sao?
Khi bạn dùng chữ abc ghi lại tiếng (nói) Việt: “máu”, “thịt”, “ăn”, “uống”, “ngày”, “tháng”, “năm”..., có phải biến âm kiểu nào đó theo tiếng Latin không (gọi là La - Việt kiểu như Hán - Việt)? Hoàn toàn không! Chỉ có tiếng Việt, chỉ là tiếng Việt mà thôi.
Theo ngữ pháp tiếng Việt là “trời xanh”, “năm mới”, “phước lành”, khi ghi bằng chữ Quốc ngữ thì có phải biến đổi ngữ pháp gì không? Không. Ngữ pháp tiếng Việt vẫn được giữ nguyên!
Không biến đổi, tức là không “hóa”, do đó dùng chữ Quốc ngữ không phải là Latin hóa tiếng Việt (không biến đổi ngữ âm, không biến đổi ngữ pháp). Chữ Quốc ngữ chỉ là Latin hóa ký tự (tức chỉ biến đổi, chỉ “hóa” về mặt chữ, bề mặt chữ viết mà thôi).
* Tóm lại:
- Dùng chữ Hán thì tiếng Việt buộc phải biến đổi ngữ âm, biến đổi ngữ pháp.
- Dùng chữ Quốc ngữ không Latin hóa tiếng Việt (không “hóa” ngữ âm, ngữ pháp), mà chỉ là Latin hóa ký tự (biến đổi về bề mặt chữ viết).
PHỤ CHÚ:
Ða phần chúng ta không nghiên cứu ngôn ngữ, nên không phân biệt được sự khác nhau giữa chữ Nôm và chữ Hán, thấy đều “chữ vuông” nên tưởng giống nhau. Chỉ cần ghi nhớ rằng: di sản Nam âm (quốc âm) không có mặt trong Hán tự.
Nam âm (quốc âm) ghi bằng chữ Nôm: “bông” (葻), “trái” (?), “thịt” (?), “máu” (?), “ngày” (?), “tháng” (? ), “năm” (?), “ăn” (?), “uống” (? )… Khi dùng chữ Hán, Quốc âm tiếng Việt buộc phải biến đổi sang âm Hán - Việt: “hoa” (花), “quả” (果), “nhục” (肉), “huyết” (血), “nhật” (日), “nguyệt” (月), “niên” (年), “thực” (食), “ẩm” (飲)…
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận