Chữ và nghĩa: nguồn gốc hai chữ “cang thường”



1. Do ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo, hai chữ “cang thường” (cương thường) từ xưa sớm trở thành lời ăn tiếng nói của người Việt, được nhắc tới nhiều trong ca dao. Chẳng hạn:

- Đàng đi biết mấy dặm trường / Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa?

- Đạo cang thường khó lắm bậu ơi / Không như ong bướm đậu rồi lại bay.

- Đạo cang thường không phải như cá tôm / Đang mua mớ nọ lại chồm mớ kia.


2. Vào thế kỷ 19, các từ điển tiếng Việt đầu tiên đã sớm ghi nhận hai chữ “cang thường”. Chẳng hạn:

- “Nam Việt-Dương Hiệp Tự Vị / 南越洋合字彙 / Dictionarium Anamitico-Latinum” (xuất bản năm 1838 tại Serampore, Ấn Độ) của Đức Giám mục Jean-Louis Taberd, tức Cố Từ (1794-1840), đã ghi nhận hai chữ “cang thường” ở mục từ “cang” (tr. 44), và giảng bằng tiếng Latin là “quinque virtutes cardinales” [năm đức tánh chủ yếu]. (Xem ảnh đính kèm.)

- “Tự Vị An Nam - Pha Lang Sa /Dictionnaire annamite - français”(Tân Định: Imp. de la Mission, 1877) của J.M.J đã ghi nhận hai chữ “cang thường” ở mục từ “cang” (tr. 80), và giảng là“Le vertus cardinales”[Các đức tánh chủ yếu]. (Xem ảnh đính kèm.) Ghi chú: Soạn giả J.M.J. được biết là Đức Giám mục Marie-Antoine Louis Caspar (tên gọi tiếng Việt là Cố Lộc). Ngài sanh ngày 23.7.1841, về với Chúa ngày 13.6.1917.

-Tiếp theo đó,“Đại Nam Quấc Âm Tự Vị”, Tome I, của Huình-Tịnh Paulus Của (Sài Gòn: Imprimerie Rey, Curiol & Cie., 1885) ghi nhận hai chữ “cang thường” ở mục từ “cang” (tr. 100), và giảng là:“Lẽ hằng, chính phép buộc ở đời”.Ghi chú: “Chính phép” nghĩa là quy tắc chơn chánh. (Xem ảnh đính kèm.)




3.Hai chữcang thường” nghĩa là gì?

“Cang thường” 綱常là nói tắt “tam cang ngũ thường” 三綱五常.

Tam cang (tam cương)là “ba giềng mối”, gồm: “quân thần” 君臣 (vua tôi); “phụ tử” 父子 (cha con); “phu phụ” 夫婦 (chồng vợ). “Cang” (cương) nguyên nghĩa là “giềng”, tức là sợi dây chánh (tổng thằng 總繩) của cái lưới (võng網) để kéo lưới; suy rộng ra, “cang” là những phần hay điểm chủ yếu. “Cang kỷ” 綱紀 là giềng mối, phép tắc, luật lệ. (Sợi dây lớn ngoài mép lưới gọi làcương; sợi dây bé gọi làkỷ.) “Tam cương” được dịch tiếng Anh là“thethree guiding principles(ba nguyên tắc chỉ đạo) hoặc“thethree fundamental bonds(ba sự ràng buộc cơ bản).

Ngũ thường五常 (the five constant virtues) là năm đức tính phải có của con người, gồm: “nhân” 仁 (benevolence or compassion) là lòng thương người; “nghĩa” 義 (righteousness) là lẽ phải (cũng như “công chính” trong Công giáo); “lễ” 禮 (propriety or proper behavior) là sự đúng đắn trong cư xử; “trí” 智 (wisdom) là sự sáng suốt; “tín” 信 (trustworthiness; sincerity) là chân thành, đáng tin cậy.


4. Hai chữ cang thường” do ai đặt ra?

“Cang thường” hay “tam cang ngũ thường” là di sản của Nho giáo, vì vậy người ta dễ nghĩ rằng Đức Khổng Tử là tác giả đặt ra thuật ngữ này. Sự thật không phải như thế.

Sách Luận Ngữ hình thành trong khoảng hai trăm năm vào thời Chiến Quốc (476-221 trước Công Nguyên). Chương “Thuật Nhi” của sách này chép:

Tử viết: Thuật nhi bất tác; tín nhi hiếu cổ. 子曰: “述而不作; 信而好古.” (Đức Khổng Tử nói: “Ta thuật lại chứ không sáng tác; ta tin xưa và thích xưa.”)

Như vậy, ngài chỉ san định 删定 kinh sách có sẵn mà thôi. “San” là lược bỏ, gọt đẽo, sửa cho đẹp. “San định” là sửa sang và xác định. Chính ở điểm này mà nhiều học giả cho rằng ngài “lấy thuật làm tác” (dĩ thuật vi tác 以述為作).

Luận Ngữ và kinh sách trước đời Tần (221-206 trước Công Nguyên) thật ra không có các chữ “tam cương” và “ngũ thường”.

Trong Luận Ngữ (chương “Nhan Uyên”), Đức Khổng Tử nói quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử君君, 臣臣, 父父, 子子 là ngài nêu ra thuyết “chính danh” 正名 (rectification of names); chẳng liên quan gì tới “tam cương”. Nói tám chữ đó, ý ngài là: Vua phải ra vua; tôi phải ra tôi; cha phải ra cha; con phải ra con. (Nói “phụ” hay cha là hàm nghĩa “phụ mẫu”, cả cha lẫn mẹ.) Tám chữ đó chính là câu trả lời của Đức Khổng Tử khi Tề Cảnh Công hỏi ngài về chánh trị. Nghe trả lời như vậy, Tề Cảnh Công nói: “Đúng thế. Nếu vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, thì dù có thóc lúa chắc gì ta đã ăn được”.

Nói cách khác, “danh” là yếu tố hay khái niệm của vật đó. Thí dụ, cái được nêu ra bằng định nghĩa của danh “vua” (quân) là cái yếu tố khiến vua ra vua. Nói “vua [a] phải ra vua [b]”, thì chữ “vua” [a] chính là ông vua; còn chữ “vua” [b] là chỉ cái danh cũng là khái niệm của một ông vua lý tưởng. Kế đó, các danh “tôi” (thần; bề tôi); “cha” (phụ); “con” (tử) cũng có nghĩa tương tự như thế.

Theo Đức Khổng Tử, nếu khiến cho vua, tôi, cha, con đều đúng như cái định nghĩa về họ để cho mỗi người thực hiện trọn đạo làm vua, đạo làm tôi, đạo làm cha, và đạo làm con, thì đời không còn loạn nữa; tức là “thiên hạ hữu đạo” 天下有道 vậy, và Đức Khổng chẳng phải mất công bôn ba các nước để truyền dạy đạo lý làm người nữa.

Nhân đây, nói thêm về nghĩa của “chính danh”: Mỗi cái “danh” đều có định nghĩa của nó. Cái định nghĩa đó nêu ra cái “thuộc tính” (attribute) khiến cho một vật (mà cái “danh” gán cho nó) được là chính nó. Chẳng hạn, để có cái danh là “muối” thì buộc phải có thuộc tính là “mặn”. Đức Chúa Giêsu dạy các tông đồ như sau: “Muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mátthêu 5,13). Qua lời Chúa, ta hiểu rằng muối mà mất thuộc tính mặn thì nó không đáng được gọi là muối nữa; nó mất cái chính danh và trở thành vô dụng, đành phải ném đi.


5. Thật ra, Đức Khổng Tử từng giảng về ba mối quan hệ (quân thần, phụ tử, phu phụ) và giảng rải rác năm đức tính (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) nhưng ngài không dùng các chữ “tam cang” và ngũ thường”. Chẳng hạn, trong Lễ Ký (Ai Công Vấn), Khi Ai Công hỏi Đức Khổng về “vi chính 為政 (làm chánh trị), thì ngài đáp: Chính giả chính dã. Quân vi chính tắc bách tính tòng chính hỹ政者正也. 君為正則百姓從政矣. (Chánh trị là đúng đắn. Vua làm đúng đắn thì dân chúng tuân theo nền chánh trị đó.) Ai Công hỏi thêm rằng làm chính trị như thế nào, thì Đức Khổng đáp: Phu phụ biệt; phụ tử thân; quân thần nghiêm. Tam giả chính tắc thứ vật tòng chi hỹ. 夫婦別; 父子親; 君臣嚴. 三者正則庶物從之矣. (Chồng vợ tách biệt, không lộn lạo; cha con thân ái; vua tôi nghiêm trang. Ba điều đó đúng đắn thì muôn vật đều noi theo). Tức là, Đức Khổng từng đề cập ba mối quan hệ này, nhưng không gọi chúng là “tam cang”.

Tóm lại, bốn chữ “tam cang ngũ thường” (hay hai chữ “cang thường”) không do Đức Khổng sáng tác hoặc thuật lại lời người xưa; tức là các chữ này xuất hiện sau đời Đức Khổng.

Đón đọc kỳ sau:

Chữ và nghĩa: HAI CHỮCANG THƯỜNG” CÓ TỪ LÚC NÀO?

LÊ ANH MINH

Từ khoá:
Chia sẻ:

Bình luận

có thể bạn quan tâm

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai tại Châu Á
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai tại Châu Á
Ngày 28.9.2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu đang tập trung tại quảng trường thánh Phêrô đông đảo.
Hội thảo khoa học “Tôn giáo và Nghệ thuật: Lý luận và Thực tiễn”
Hội thảo khoa học “Tôn giáo và Nghệ thuật: Lý luận và Thực tiễn”
Sáng 26.9.2025, tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM, Viện Nghiên cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tổ chức hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề “Tôn giáo và Nghệ thuật: Lý luận và Thực...
Chiếc bánh mùa trăng tròn
Chiếc bánh mùa trăng tròn
Những nụ cười tươi tắn của trẻ em làng Konskoi, thuộc giáo xứ Đak Tân, giáo phận Kon Tum, khi đón nhận những chiếc bánh Trung Thu được gởi lên từ miền xuôi, mang theo yêu thương đến với các em.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai tại Châu Á
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai tại Châu Á
Ngày 28.9.2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu đang tập trung tại quảng trường thánh Phêrô đông đảo.
Hội thảo khoa học “Tôn giáo và Nghệ thuật: Lý luận và Thực tiễn”
Hội thảo khoa học “Tôn giáo và Nghệ thuật: Lý luận và Thực tiễn”
Sáng 26.9.2025, tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM, Viện Nghiên cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tổ chức hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề “Tôn giáo và Nghệ thuật: Lý luận và Thực...
Chiếc bánh mùa trăng tròn
Chiếc bánh mùa trăng tròn
Những nụ cười tươi tắn của trẻ em làng Konskoi, thuộc giáo xứ Đak Tân, giáo phận Kon Tum, khi đón nhận những chiếc bánh Trung Thu được gởi lên từ miền xuôi, mang theo yêu thương đến với các em.
Món quà của những ngày yếu đuối
Món quà của những ngày yếu đuối
Lớn lên trong môi trường Công giáo, tôi đã quen với những lời dạy, những lễ nghi,  nhưng tôi chưa thể thực sự sống với điều đã học.
Công giáo Việt Nam  và văn hóa dân tộc
Công giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc
Khi quy chiếu theo triết lý Âm - Dương, nền tảng của các nền văn hóa Á Đông, thì văn hóa Việt Nam thiên về âm tính.
Áp lực của người cầm phấn
Áp lực của người cầm phấn
Ngày 15.9.2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 19 về khen thưởng, kỷ luật học sinh, trong đó bỏ hình thức đình chỉ học tập và đuổi học, nhưng nhấn mạnh về bản kiểm điểm, nhắc nhở và phê bình nghiêm khắc nếu học sinh vi...
Bí thư Thành ủy TPHCM Trần Lưu Quang thăm Tòa Tổng Giám mục Tổng giáo phận TPHCM
Bí thư Thành ủy TPHCM Trần Lưu Quang thăm Tòa Tổng Giám mục Tổng giáo phận TPHCM
Chiều ngày 24.9.2025, đoàn đại biểu Thành ủy - HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ Việt Nam TPHCM do ông Trần Lưu Quang, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy TPHCM, làm trưởng đoàn đến thăm Tòa Tổng Giám mục TGP TPHCM.
Tô canh bún ngày xưa
Tô canh bún ngày xưa
Tôi vẫn nhớ những bữa xế ở quê ngày còn nhỏ, khi mẹ bưng một tô canh bún nóng hổi đặt trước mặt mình. Đó thường vào lúc một buổi chiều mưa ướt trời ở quê nhà.
Thú vị chợ chuyên doanh
Thú vị chợ chuyên doanh
Trên quốc lộ 80 hướng về Rạch Giá, có một đoạn ngắn thôi, hai bên xanh bóng dừa, ven lộ là những trái khóm chín vàng xếp ngay ngắn trên các kệ, thành cái chợ độc đáo lộ thiên hấp dẫn khách lại qua, dù có khi chỉ kịp nhìn...