Thời điểm đứng vào hàng ngũ Lực lượng phòng vệ Israel (IDF), mỗi người lính đều kết lại lời tuyên thệ bằng câu: “Sẽ không để Masada một lần nữa sụp đổ”.
![]() |
Masada là một công trình kết hợp pháo đài và cung điện cổ, được xây dựng bên trên phần cao nhất của một địa lũy (1.300m), chỉ khu vực nằm giữa các đứt gẫy địa chất bình thường ở rìa đông của hoang mạc Judea, nhìn xuống Biển Chết. Ðây là một trong những kiến trúc nổi bật nhất vào thời của Chúa Giêsu ở Ðất Thánh. Chứng cứ lâu đời nhất cho thấy có sự sinh sống của con người ở Masada đã được tìm thấy bên trong một hang động gần như không thể tiếp cận, có tên là Yoram, nằm ở vách đá phía nam sâu 100m. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện những hạt lúa mạch có niên đại khoảng 6.000 năm, dẫn đến giả thuyết cho rằng nơi này từng có người sinh sống trong một thời gian ngắn vào thời đồ đá cũ.
![]() |
Công trình đồ sộ trên vách đá
Hầu như tất cả các thông tin lịch sử về Masada được ghi nhận đến ngày nay là thông qua sử gia Josephus Flavius vào thế kỷ thứ nhất. Vị sử gia người La Mã gốc Do Thái đã để lại ghi chép cho thấy vua Alexander Jannaeus của triều đại Hasmonean từng trị vì Masada vào thế kỷ thứ nhất Trước Công nguyên. Tuy nhiên, cho đến nay, các nhà khảo cổ học vẫn chưa tìm được tàn tích nào còn sót lại vào thời này. Di tích mà nhân loại thừa hưởng hiện tại là công trình pháo đài - cung điện được xây dựng dưới thời vua Hêrôđê. Hoàng đế Hêrôđê vốn nổi tiếng với những dự án xây dựng khổng lồ vào thời của ông, bao gồm nỗ lực tu bổ Ðền thờ Thứ hai ở Jerusalem và mở rộng Núi Ðền ở Ðất Thánh.
![]() |
Masada trải qua 3 giai đoạn xây dựng dưới quyền vua Hêrôđê. Trong đó, giai đoạn đầu tiên là Cung điện phương Tây vào khoảng năm 35 trước Công nguyên, cùng nhiều nhà kho và nơi đóng quân. Giai đoạn thứ hai rơi vào năm 25 trước Công nguyên, theo đó mở rộng Cung điện phương Tây, xây dựng thêm kho chứa thực phẩm và Cung điện phương Bắc. Theo ghi chép của các nhà khảo cổ học và giới sử gia, Cung điện phương Bắc là một trong những pháo đài - cung điện xa hoa nhất vào thời vua Hêrôđê. Công trình được xây theo kiểu kiến trúc cung đình La Mã, trên đỉnh đồi ở phía bắc Masada và tiếp tục trải dài thêm 2 tầng bên dưới, đến tận rìa của các vách đá. Vì thế, người đời sau biết đến nơi này với cái tên nổi tiếng hơn là Cung điện treo ở Masada.
Một trong những điểm đáng chú ý nhất về mặt kiến trúc ở Masada là người đời xưa đã khoét núi để tạo thành các bể chứa nước, tất cả hợp thành hệ thống cung cấp nước phức tạp nhất thời đó, cho phép thu thập đủ nước mưa cho 1.000 người sinh hoạt trong vòng 3 năm. Ðến năm 15 trước Công nguyên, vua Hêrôđê đã gia cố khu vực bằng cách xây dựng hàng rào phòng ngự cao 4m và dựng nên các tháp phòng vệ, hầu như biến nơi này thành khu vực bất khả xâm phạm.
![]() |
Cuộc vây hãm Masada
Tuy nhiên, Masada không đi vào lịch sử Israel vì kiến trúc của nó, mà là những sự kiện xảy ra trong năm 73 đến 74 sau Công nguyên. Lúc đó, 967 người Do Thái khởi nghĩa đã trú đóng bên trong thành trì này trước sự bao vây của quân đội La Mã, những kẻ cướp phá và phóng hỏa Jerusalem vào năm 70.
Không đầy 40 năm sau khi Chúa Giêsu chịu khổ hình trên thập tự giá, vào thời buổi khởi đầu của cuộc chiến tranh Do Thái - La Mã lần thứ nhất (năm 66 - 73), những người nổi dậy Do Thái đã cố thủ ở Masada. Dưới sự lãnh đạo của Elazar ben Yair, phe khởi nghĩa đã xoay xở ngăn chặn sự tấn công quân La Mã, cho đến khi đội quân do tướng Flavius Silva thành công vây hãm pháo đài và cuối cùng công phá được tường thành của Masada. Thà chết chứ không rơi vào tay quân thù, hầu hết những chiến binh Do Thái đã quyết định tự sát. Nhờ vào câu chuyện này, Masada trở thành biểu tượng cho lòng khao khát tự do của người Do Thái.
![]() |
Sau khi các tu sĩ Byzantine đến sống tại đây vào thế kỷ thứ 6, pháo đài - cung điện đã bị bỏ hoang suốt hơn 13 thế kỷ, và tất cả những dấu vết của con người đều dần biến mất theo năm tháng. Phải chờ đến thế kỷ 19, Masada mới một lần nữa được khám phá và trở thành di sản quan trọng của nhân loại thời nay. Nằm trên vùng sa mạc Judea hùng vĩ, pháo đài - cung điện ngày nay trở thành điểm đến không thể thiếu được trong các chuyến thăm viếng Ðất Thánh.
LING LANG
Bình luận