“Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung...”
(Văn Cao)
Một ngôi làng nhỏ với lũy tre xanh, xa xa là tháp chuông nhà thờ vút cao giữa vườn tược xanh mát. Khung cảnh bình yên ấm áp đó, khi ta đi qua những làng quê miền duyên hải Trung bộ, đồng bằng châu thổ Bắc bộ hay những xứ đạo miền Nam nay vẫn còn cảm nhận được dẫu cuộc sống hiện đại bộn bề huyên náo đến đâu.
![]() |
Trong tôi hiện lên ngôi làng xứ đạo nghèo khó mà bình an thuở nào, khi tôi còn thơ bé. Ngôi làng không có những bóng tre xanh êm ru trong bài hát của Văn Cao, mà lúc nào cũng như ngủ quên dưới các tán xoài, mít cổ thụ. Ngôi làng có những con đường mòn cát trắng dẫn đến một ga xép của những phận đời nổi trôi giang hồ. Và thiết lộ Bắc Nam vắt ngang những dải đồng xanh mỗi ngày vài ba lần hun hút tiếng còi tàu. Mẹ tôi nói rằng, ngôi làng xứ đạo được lập nên từ cuộc di dân vào những năm cuối của cuộc chiến khốc liệt. Cư dân đến đây từ những vùng quê khác nhau ở miền Trung. Họ theo chân một linh mục đi tìm Đất Hứa. Đất Hứa bấy giờ không có sữa và mật như trong Thánh Kinh, mà nơi dừng chân thỏa niềm mong mỏi của những con dân xiêu tán: tìm được một chốn náu nương thoát khỏi bom lửa khốc liệt của chiến tranh.
Những người nhập cư lúc bấy giờ phải phát rẫy, khai hoang để đất đai thuần theo mùa màng, mang lại hoa màu, sung túc. Người ta dựng nhà, lập thôn, mở xóm, xây trường học, chợ búa và cả một ngôi nhà thờ giữa làng. Một nhân quần mới được thành hình.
Nghĩ lại, ông cha xứ khác nào ông Môi-sê trong thời Cựu ước, đã vung gậy đưa dân đi qua những chặng hiểm nguy. Chỉ khác, trên tay ông là một tràng chuỗi và cây thập giá treo Đấng Kitô. Ông mở ra một hành trình tìm đến cõi sống cho con chiên dưới màn trời mưa bom bão đạn.
Khi lớn lên, trong công việc sao lục tư liệu và nghiên cứu, tôi cũng đã gặp những hành trình tương tự như thế. Là hành trình di dân của những cư dân miền Bắc, Bắc miền Trung vào cao nguyên Lâm Viên lập trại nhập cư mà tạo ra các xứ đạo từ Đà Lạt xuống Bảo Lộc vào nửa cuối thập niên 1950; là hành trình của những con chiên đất khổ Bình-Trị-Thiên, Nam-Ngãi-Bình-Phú vào neo đậu ở vùng Phan Rang sau Mùa Hè Đỏ Lửa; và cả những hành trình mở mang xứ đạo của những cộng đồng Công giáo “Bắc Năm Tư” ở Sài Gòn, Đồng Nai sau Hiệp ước Genève... Hầu hết, những cuộc ra đi và neo đậu, lên đường và kiến tạo đều dưới ngọn thánh giá giương cao của một vị linh mục. Ra đi trong tâm tình hòa bình và kiến tạo yêu thương.
Lịch sử di dân Công giáo Việt Nam vì thế đã có lúc làm tái hiện một chương đoạn đầy âm vang trong sách Exodus (Xuất hành). Nhưng đó cũng là hành trình mà mỗi gia đình Công giáo phải trải qua nhiều mất mát, thẳm sâu trong tâm thức mỗi người trong cuộc, dướivòng nguyệt quế lộng lẫy là những giọt máu hồng của bước di thê.
Những ngôi làng, thị tứ Công giáo hiền hòa được hình thành nơi các vùng đất mới, mang theo hoài niệm và bản sắc, phong tục và giá trị truyền thống từ quê hương cũ. Tiếp sau đó là những nỗ lực sống chung, dựng lại nhà, dựng lại người, dựng lại cộng đoàn trong bao dung và biết bao nỗ lực. Từ đó, hình thành nên các giá trị mới không chỉ cho thế sống ở đời mà còn trong nếp sống đạo của mỗi người.
Ta có thể hình dung, dòng nước chảy ra từ đền thờ đã không bao giờ tuôn trào một cách thong thả thảnh thơi nhất, mà lại đầy những khúc ngoặt nghiệt ngã giữa dòng đời bất trắc để cho thế gian được thấy, được tắm gội, được đón nhận như một suối nguồn ân tình thuần khiết và lớn lao diệu vợi.
Khi bước vào một xứ đạo, dù miền cao nguyên với tháp nhà thờ vút cao trên những rừng thông hay miền gió cát với nhà nguyện có mái hình con thuyền, khi dừng chân ở một giáo xứ trung du ngắm dáng giáo đường khiêm cung ẩn trong cỏ cây bát ngát hay khi bước vào một xóm đạo giữa lòng thành phố huyên náo, nơi có ngôi giáo đường bé nhỏ lặng lẽ..., thì ta đều nhận ra sự bình yên và thanh khiết trong cõi lòng. Khung cảnh thanh bình gợi nhắc ta về một chiều kích, con đường hướng sâu vào nội tâm thanh tịnh thay vì loay hoay mãi với cõi nhân sinh rộn ràng.
Sẽ là một cảm giác yên tâm, thanh thản khi ta đi vào một xứ đạo, nơi mà ta biết, số đông trong con người trong nhân quần đó có lẽ sống hướng thượng đầy thanh khiết và hướng tha, độ lượng. Nơi mà ta biết cuộc sống đã có những khế ước tôn giáo để ràng buộc con người hướng đến những giá trị chính trực và đức hạnh.
Mỗi khu vực người Công giáo di cư mang theo một ký ức văn hóa riêng, một điều kiện sinh tồn riêng và những đặc thù tâm tính cộng đồng riêng, nhưng có một quy hướng chung - hướng đến những giá trị sống bền vững, nhân ái, bao dung - triển khai từ một triết lý coi trọng nhân vị, lấy sự thánh thiện trong tâm hồn làm nguồn vui và lấy yêu thương, hy sinh cho tha nhân làm nền tảng cho mọi xuất xứ ở đời.
Ta lại nhớ đến công đức của những người mở cõi. Nếu ta là khách lạ đặt chân đến một xứ đạo ở miền Nam, hỏi người bản xứ về lai lịch của cộng đồng, có thể những vị trưởng thượng sẽ kể cho ta nghe về một hành trình như người già kể cho trẻ con nghe một câu chuyện huyền thoại du hành. Bước chân mở cõi trong văn hóa Nam bộ thời hiện đại nói chung sẽ được bổ sung thêm một nét nghĩa mới khi ta nghĩ về những người dẫn đạo thiết lập những cộng đồng tâm linh thuần nhất. Chân dung họ là những ông linh mục lèo lái giáo dân của mình đi qua các thác ghềnh lịch sử, gầy dựng xứ đạo ở những miền đất mới. Các tu sĩ, có lẽ không được học kinh nghiệm quản trị và lãnh đạo con người hay thu phục nhân tâm, điều mà các ngài triển khai là xâu chuỗi các giá trị đức tin cố kết cộng đồng trong mệnh lệnh ra đi, một năng lực hướng đạo mà Thánh linh mặc khải. Ra đi để tìm nơi sống sót. Ra đi để mở mang biên giới đức tin. Ra đi để được cứu rỗi.
Khi trở về xứ cũ, tôi hỏi thăm về vị linh mục đã dẫn dắt cộng đồng hàng trăm cây số dưới mưa bom bão đạn để hình thành nên một xứ đạo mới - nơi tôi là thế hệ kế cận được sinh ra - thì nhiều người đã không còn nhớ. Những người già đã và đang mang theo câu chuyện hành trình diệu kỳ đó đi vào lòng đất. Họ không kịp truyền lại cho cháu con. Giờ đây, ký ức về ông linh mục giương cao cây thánh giá để đoàn dân theo bước đã phủ đầy sương mù. Vị chủ chăn có lẽ đã nhất thể hóa với biểu tượng thủ lãnh trong Cựu Ước mà ta tưởng nhớ trong Lễ Vượt qua.
Ở một xứ đạo khác, khi tôi thăm hỏi về những ngày cuối đời của vị linh mục đã đưa một cộng đồng dân cư Công giáo từ Bắc miền Trung và Nam miền Trung mà lập nên một xứ đạo mới, tôi được giáo dân kể về ông cha xứ như một huyền thoại của tinh thần nghèo khó và khổ hạnh. Ông sống với những giáo dân đã cùng mình kinh qua qua bao hiểm nguy, ông nâng niu chăm sóc con cái của họ với một hệ thống kỹ luật cổ điển bài bản và ông ra đi một mình trong nhà dưỡng lão linh mục của giáo phận. Ông có nguyện vọng được nằm lại nơi nghĩa trang chìm khuất sau những bóng xoài, bóng mít cổ thụ, bên những rẫy khoai, mì và lúa xanh mà chính ông đã cùng con chiên gieo hạt những mùa đầu.
Ông mong muốn được nằm lại bên cạnh những con chiên từng chung vai sát cánh với mình trong hành trình mở cõi để khúc nhạc âm hưởng kỳ vĩ sử thi trong sách Xuất hành một lần nữa được âm vang!<
Tùy bút của NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Trích từ bản thảo Ngang qua Vườn Cây Dầu]
Bình luận