Trong dòng đời của một con người cũng như của một dân tộc, như dân Do Thái, ai cũng muốn được sống lâu dài. Họ đã khám phá ra một bí quyết để đạt được điều đó là “phải yêu mến Đức Chúa, là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết linh hồn, hết sức và phải yêu người thân cận như chính mình”, vì “Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất (x. Đnl 6,2-6). Đức Giêsu cũng đã xác nhận điều luật căn bản này (x. Mc 12,28-34), đã giải thích cần phải hiểu và giữ điều luật căn bản này như thế nào thì mới tìm được sự sống vĩnh hằng.
Người Do Thái và nhiều người khác đều biết điều luật căn bản này, nhưng lại hiểu chưa đúng về tình yêu nên không cảm nhận được sự sống vĩnh hằng trong đời mình. Vì thế, Đức Giêsu muốn dạy ta rất kỹ về nó.
Trước hết, Đức Giêsu nói về một tình yêu toàn diện phải dành cho Thiên Chúa: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Trong thực tế đời sống, nhiều người thường dành phần hồn để yêu Chúa, dành lòng để yêu người, dành trí để học hành, làm việc, dành sức để giải trí, chơi bời. Chúa chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong đời sống, trong khi đáng lý Ngài phải là tất cả cho mỗi người và phải dành tất cả cho Ngài.
Người ta thường dành phần lớn tình yêu cho cha mẹ, vì nghĩ rằng cha mẹ cho họ sự sống thể xác. Nhưng khi hiểu biết thể xác vật chất với những nguyên tố vũ trụ thay đổi không ngừng, hàng triệu tế bào mới thay đổi mỗi ngày thì cha mẹ chỉ góp phần rất nhỏ cho đời mỗi người. Cha mẹ cũng không thể cho ta tình yêu, tri thức, hạnh phúc, chân thiện mỹ và sự sống vĩnh hằng. Chính những giá trị tinh thần này mới định hình cho thể xác để làm cho ta thành một con người toàn diện với nhân phẩm cao quý của mình.
Như thế, việc ta dành toàn thân cho Thiên Chúa chỉ là luật công bằng vì Ngài đã ban tất cả cho ta và ta phải trả lại tất cả cho Ngài. Nhưng rất nhiều người, nhất là các bạn trẻ, chưa hiểu được điều đó. Mỗi ngày họ thở hơn 10.000 lít không khí để chuyển hóa máu đen thành máu đỏ cho sự sống thể xác, nhưng có mấy người trả cho Chúa một xu nhỏ hay một lời cảm ơn? Mỗi ngày ta yêu, ta nghĩ, nhưng thử hỏi ai đã ban tình yêu, và tri thức cho ta? Nhiều người nghĩ rằng tình yêu tự nhiên mà có, tư tưởng do học hành mà kiếm được vì chúng nằm sẵn trong trái tim hay bộ não của mình. Nhưng nếu mổ trái tim, chỉ thấy những thớ thịt, giải phẫu bộ não, ta chỉ thấy những xung động điện của các tế bào thần kinh. Chẳng có nơi nào trong thân xác chứa đựng tình yêu hay tư tưởng cả.
Nếu phân tích kỹ hơn câu trích dẫn của Chúa Giêsu và so sánh với câu của Mosê, sẽ thấy Chúa Giêsu đã thêm một chi tiết quan trọng: “hết trí khôn”. Đây là điểm khác biệt mà ít người quan tâm. Chỉ khi yêu với hết trí khôn, ta mới có thể hiểu biết thật sự Thiên Chúa, con người và vạn vật để yêu mến như Chúa Giêsu. Nhiều người chỉ yêu theo bản năng, cảm xúc, cảm tình chứ không bằng trí khôn của mình.
Điểm bổ túc thứ hai là Chúa Giêsu đã đặt điều luật yêu thương “người thân cận như chính mình” ngang tầm quan trọng với điều luật yêu mến Thiên Chúa. Rất nhiều người đều cho điều luật đối với Thiên Chúa là quan trọng hơn và có quyền ưu tiên. Người ta sẵn sàng hy sinh con người để bảo vệ quyền lợi của Thiên Chúa. Chúa Giêsu hình như đang đảo ngược vị trí và trật tự trong tình yêu khi Người dạy ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người cũng nhắc bảo chàng thanh niên về về các giới răn đối với con người trước các giới răn đối với Thiên Chúa (x. Mc 10,19). Thánh Gioan đã hiểu đúng ý của Chúa Giêsu khi dạy: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (x. 1Ga 4,20-21).
Cũng lưu ý đến từ “người thân cận” theo nghĩa là người thân thiết và gần gũi, chứ không phải là con người nói chung, ở cách xa mình. Đó là những con người cụ thể, đang sống trong môi trường của mỗi người, với những cá tính khác biệt, thậm chí khốn khổ, nghèo túng, thấp kém hơn mình trong các đẳng cấp xã hội. Ngày 1.10.2024, tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, trong dịp khai mạc khóa thứ hai của Thượng Hội đồng Giám mục về Giáo Hội hiệp hành, 7 hồng y đại diện Giáo hội đã đọc các lời xin tha thứ về các tội mà Giáo hội đã xúc phạm đến những người thân cận, cùng đồng hành với mình. Những lời thú tội và xin lỗi ấy có phải là của mỗi Kitô hữu? Hay mỗi người vẫn đứng thẳng, ngạo nghễ nhìn người khác đấm ngực sám hối?
Điểm bổ túc cuối cùng và thật sự giúp từng Kitô hữu tìm được sự sống đời đời, hoàn thành các điều luật căn bản: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (x. Ga 15,12). Đức Giêsu là Ngôi lời Thiên Chúa làm người nên Người đã nối kết điều luật tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người trong một tình yêu duy nhất và Người đã thể hiện tình yêu đó trong đời sống của mình.
Vì thế, khi mỗi người gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu và thể hiện tình yêu như Người là lúc sẽ cảm nhận được sự sống vĩnh hằng của Thiên Chúa ngay trong cuộc đời trần thế này.
“... Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12) |
Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Bình luận