Tổ chức dòng tu Công giáo ở Việt Nam từ buổi đầu đến nay
Thời kỳ từ buổi đầu đến năm 1954
Dòng Nữ tu
* Dòng Mến Thánh giá Kiên Lao - Bùi Chu
Dòng được thành lập năm 1670 tại Kiên Lao. Do những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, dòng không có điều kiện phát triển. Năm 1951, Đức Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đệ đơn xin Tòa Thánh cho cải tổ thành dòng Mến Thánh giá có lời khấn theo Giáo luật. Năm 1954, khi dòng Trinh Vương được lập tại Bùi Chu thì hầu như Mến Thánh giá Bùi Chu không còn.
Mục đích: đạt tới sự hiểu biết, yêu mến và hiến dâng trọn vẹn cho Đức Gĩêsu Kitô bằng việc chuyên chú suy niệm, tưởng nhớ và noi theo cuộc đời của Người.
Tinh thần: “Khổ chế, hy sinh vì tình yêu”.
Bổn mạng: Lễ Thánh Giuse, ngày 19.3.
Tước hiệu: Thánh giá Chúa, ngày 14.9.
![]() |
Nữ tu dòng MTG Qui Nhơn thăm người nghèo |
* Dòng Mến Thánh giá Hà Nội
Dòng thành lập 1670 bởi Đức Giám mục Pierre Lambert de la Motte ở làng Kiên Lao, Bùi Chu, tỉnh Nam Định.
Ngày 19.2.1670, nhân ngày Lễ Tro, Đức Giám mục chủ sự lễ khấn của 2 nữ tu đầu tiên là Anrê và Paula ở Phố Hiến (tỉnh Hưng Yên) trên một chiếc thuyền neo tại sông Hồng, đối diện với làng Bái Vàng (thuộc địa phận Hà Nội).
Từ khi thành lập đến đầu thế kỷ XX, dòng có 16 nhà thuộc giáo phận Hà Nội.
Dòng qua 3 lần cải tổ:
Lần thứ nhất, năm 1936 thời Đức Giám mục F. Chaize (Thịnh), một số nữ tu trẻ khấn theo Giáo luật. Như vậy từ năm 1941 dòng có hai nhánh: (1) cải tổ có lời khấn theo Giáo luật (năm 1954 di cư vào Nam); (2) vẫn giữ lời khấn tư như trước.
Lần thứ hai, năm 1954 thời Đức Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê có ý định cải tổ toàn dòng nhưng Tòa Thánh không châu phê với lý do: dòng đã cải tổ một lần, nếu cải tổ lần hai phải đổi tên, việc cải tổ lần này vì vậy không thành.
Lần thứ ba, năm 1978 thời Đức Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn tiến hành cải tổ theo Giáo luật. Hồng y xin phép Tòa Thánh làm luật mới, để các nữ tu học hỏi và thi hành.
Năm 1983, ngày 14.9 nhằm lễ tôn vinh Thánh Giá, có 7 nữ tu được khấn.
Mến Thánh giá là dòng nữ tu địa phận, tổ chức theo từng địa phận. Mô hình có nhà Mẹ (nhà chính) do Mẹ Bề trên đứng đầu, mỗi nhà Mẹ có một số nhà con do chị Bề trên đứng đầu.
Cho đến thời điểm 1954, hầu hết các giáo phận ở miền Bắc đều thành lập dòng Mến Thánh giá.
![]() |
Nữ tu Cát Minh Sài Gòn trong lễ tạ ơn mừng kỷ niệm 160 năm Đan Viện Cát Minh hiện diện trên đất Sài Gòn 19.3.2021 |
* Dòng Mến Thánh giá Hưng Hóa, thành lập 15.1.1943.
Dòng Mến Thánh giá Vinh: Khi giáo phận Vinh thành lập (1846) trên vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã có 8 cộng đoàn. Năm 1952, cải tổ thành dòng có lời khấn công khai theo Giáo luật. Năm 1954, hầu hết các nữ tu di cư vào Nam, giáo phận Vinh chỉ còn một dòng duy nhất là Mến Thánh giá Vinh.
Dòng Mến Thánh giá Thanh Hóa, thành lập năm 1932, ban đầu thuộc nhà Mẹ ở Phát Diệm (Ninh Bình). Năm 1936, dòng chính thức tách khỏi Phát Diệm. Năm 1954, phần lớn các nữ tu di cư vào Nam.
* Dòng Mến Thánh giá Qui Nhơn
Dòng do Đức Giám mục Pierre Lambert de la Motte lập tại An Chỉ, Quảng Ngãi năm 1671 khi đi kinh lý Đàng Trong. Đức Giám mục soạn thảo Bản luật tiên khởi. Năm 1924 dòng có lời khấn đơn. Theo sắc lệnh chuẩn y của Thánh bộ Tu sĩ ngày 2.3.1929, Đức Giám mục Augustin Tardieu Phú ban hành chỉ thị lập dòng Mến Thánh giá chính thức trong giáo phận vào ngày 14.9.1932 tại Gò Thị, Xuân Phương, Bình Định.
* Dòng Mến Thánh giá Huế
Tu viện Mến Thánh giá đầu tiên lập năm 1719 tại Thợ Đúc do thừa sai Pierre de Sennermand, một thời gian thì bị giải tán.
Sau đó các tu viện lần lượt được tái thiết tại Di Loan (1780), Kẻ Bàng (1797), Phủ Cam (1797), Nhu Lý, Bố Liêu, Mỹ Hương, Trung Quán và Sáo Bùn (1805 - 1812), Dương Sơn (1828).
Năm 1962, tu viện canh tân và hợp nhất thành dòng Mến Thánh giá Thừa sai Huế.
* Dòng Mến Thánh giá Cái Nhum (giáo phận Vĩnh Long)
Dòng được thành lập ngày 16.6.1800 tại Cái Nhum, giáo phận Vĩnh Long. Đây là dòng lâu đời nhất trong 4 dòng Mến Thánh giá miền Nam (Đàng Trong) gồm Cái Mơn, Thủ Thiêm, Chợ Quán, Cái Nhum.
* Dòng Mến Thảnh giá Thủ Thiêm
Dòng thành lập năm 1840 tại Thủ Thiêm (TP. Hồ Chí Minh)
* Dòng Mến Thánh giá Cái Mơn
Dòng được thành lập năm 1844 tại Cái Mơn (giáo phận Vĩnh Long) bởi Đức Giám mục Dominique Lefebvre Ngãi.
Châm ngôn: tất cả cho truyền giáo, hy sinh cho truyền giáo.
* Dòng Mến Thánh giá Chợ Quán
Dòng được lập năm 1852 tại Chợ Quán (TP. Hồ Chí Minh) do Đức Giám mục Dominique Lefebvre.
* Dòng Thánh Phaolô thành Chartres
Dòng được lập năm 1696 do linh mục Louis Chauvet, chánh xứ Levesville-la-Chenard, một họ đạo nhỏ vùng Beauce, nước Pháp.
Năm 1861, dòng đến phục vụ tại bệnh viện Biên Hòa và Mỹ Tho, năm 1862 tới Bà Rịa. Dòng đến miền Bắc năm 1883 và miền Trung năm 1889.
Bổn mạng: Lễ Thánh Phaolô trở lại (25.1) và lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô (29.6) hằng năm.
Mục đích: Nữ tu tông đồ với sứ mạng bác ái, sống trong tinh thần đơn sơ, khiêm tốn, dũng cảm và được nuôi dưỡng bằng linh đạo quy về Chúa Kitô và mầu nhiệm vượt qua.
Hoạt động: Giáo dục trẻ em; chăm sóc bệnh nhân; giúp đỡ người bất hạnh, đặc biệt là những người bị lãng quên hơn hết với tấm lòng nhân ái.
Về tổ chức: Nhà Mẹ ở Ý. Ở Việt Nam có 3 tỉnh dòng: Sài Gòn, Đà Nẵng, Mỹ Tho. Đứng đầu tỉnh dòng là bề trên giám tỉnh. Mỗi tỉnh dòng có một số cộng đoàn.
* Dòng Carmel (Cát Minh)
Dòng sống đời sống đan sĩ, có nguồn gốc từ thời Cựu Ước. Từ thế kỷ XIII dòng đi vào lịch sử với một nhóm ẩn sĩ sống trên núi Carmel ở Thánh Địa. Anh em ẩn sĩ đã xin thánh Albert, Thượng phụ Jerusalem, soạn một bản luật. Chân phước Joan Soreth thành lập dòng nữ Cát Minh. Dòng cải tổ đầu tiên tại thành Avila ngày 24.8.1562.
Carmel Lisieux (Pháp) lập Cát Minh Sài Gòn, năm 1861; Cát Minh Hà Nội, năm 1895; Cát Minh Huế, năm 1909; Cát Minh Bùi Chu, năm 1923; Cát Minh Thanh Hóa, năm 1929.
(còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận