Tổ chức dòng tu Công giáo ở Việt Nam từ buổi đầu đến nay
THỜI KỲ TỪ BUỔI ĐẦU ĐẾN NĂM 1954
Dòng Nữ tu
* Dòng Đức Bà Truyền giáo
Đây là dòng truyền giáo quốc tế do nữ tu Euphrasie Barbie sáng lập ngày 25.12.1861. Dòng có mặt ở Phát Diệm năm 1924; Thanh Hóa năm 1926; Hà Nội năm 1941.
Bổn mạng: (1) Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, (2) Lễ Đức Mẹ thăm viếng.
Đặc sủng: Nhận biết Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn gốc của mọi hoạt động truyền giáo.
Linh đạo: Đón nhận và sống các sứ vụ trong Ba Ngôi như Đức Maria trong sự thờ lạy, yêu mến và phục vụ, thể hiện qua 3 khía cạnh: Chiêm niệm - Hiệp thông - Sứ mạng.
Tổ chức: Nhà mẹ ở Ý. Đứng đầu là bề trên tổng quyền. Ở Việt Nam lập một tỉnh dòng, đứng đầu là bề trên Giám tỉnh.
* Dòng Chúa Quan Phòng Portieux
Dòng thành lập ngày 14.1.1762 bởi linh mục Gioan Martino Moye, Pháp.
Dòng đến An Giang ngày 12.1.1876. Năm 1880, các nữ tu mở tập viện với 6 nữ tu đầu tiên.
Bổn mạng: Lễ thánh Giuse 19.3.
Linh đạo: Sống phó thác cho Chúa Quan Phòng.
Tinh thần: Phó thác, đơn sơ, khó nghèo và bác ái. Đó là 4 nhân đức mà đấng sáng lập trối lại cho nữ tu Chúa Quan Phòng như 4 cột trụ chống đỡ tòa nhà hội dòng.
Mục đích: Thể hiện tình thương nhân hậu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, nhất là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Tôn chỉ: Tất cả vì vinh quang Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô.
Hoạt động: Truyền giáo, giáo dục, y tế, công tác mục vụ tại xứ đạo: dạy giáo lý, ca đoàn, sinh hoạt giới trẻ, hướng dẫn các gia đình, thăm viếng và công tác xã hội từ thiện.
* Dòng Chị em Đa Minh Việt Nam
Từ nửa cuối thế kỷ XVII, các thừa sai Đa Minh sang Việt Nam truyền giáo tại Đàng Ngoài, sau trở thành khu vực địa phận dòng.
Nhà Mụ Đa Minh đầu tiên được thiết lập tại Trung Linh năm 1715 do linh mục Bustamante Hy dòng Đa Minh. Nữ tu mặc y phục đơn giản như các phụ nữ đương thời nhưng có đội khăn lúp, sống thành cộng đoàn, giữ ba lời khuyên Phúc Âm theo luật chung gọi là Luật Nhà Mụ.
Mỗi nhà là một cộng đoàn biệt lập dưới quyền điều khiển của một “Bà Mụ” (ở Việt Nam vào thế kỷ XVII - XVIII, từ “Bà Mụ” để chỉ những phụ nữ học thức và thuộc dòng tôn thất nơi cung đình). Năm 1860, đã có Bản lề luật bằng chữ Nôm, dựa theo luật dòng nữ Đa Minh Tây Ban Nha và sửa đổi cho thích nghi với hoàn cảnh Giáo hội và địa phương. Mãi đến thập niên 1920 mới có tên Nhà Phúc thay cho Nhà Mụ.
Theo ý Tòa Thánh và nguyện vọng của các Công đồng Miền tại Việt Nam, Giám mục Đôminicô Maria Hồ Ngọc Cẩn đã lấy một phần nhân sự và tài sản của tu viện Mến Thánh giá và Đa Minh để lập dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Bùi Chu ngày 8.9.1946, chọn Nhà Phúc Đa Minh Trung Linh làm nhà mẹ cho dòng mới.
Ngày 4.8.1950, sau khi được tấn phong giám mục Bùi Chu, Đức Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi cải tổ 7 nhà phúc Đa Minh (Bùi Chu, Phú Nhai, Trung Lao, Quần Công, Sa Châu, Trung Lễ và Liễu Đề) thành dòng nữ Đa Minh theo Giáo luật, tiến hành cho soạn thảo Bản Hiến pháp dòng. Hiến pháp được đệ đạt lên Tòa Thánh và được châu phê ngày 21.3.1951.
Ngày 30.4.1951, Đức Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi tuyên bố sắc chỉ lập dòng tại Bùi Chu, với danh xưng dòng Chị em Đa Minh Việt Nam thuộc quyền Đức Giám mục giáo phận.
Bổn mạng chính: Thánh Catarina Siena, 29.4.
Châm ngôn và đặc sủng: Theo tinh thần Thánh Tổ phụ Đa Minh: “Nói với Chúa để rồi đi nói về Chúa”, tức là “Chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã chiêm niệm”.
Mục đích: Làm vinh danh Chúa và thánh hóa bản thân bằng cách khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm, theo Hiến pháp chị em Đa Minh Việt Nam, Chỉ nam dòng và tinh thần tu luật Thánh Augustin. Mục đích riêng: truyền giáo và giáo dục.
Hoạt động:
- Truyền giáo cho lương dân.
- Giáo dục đức tin và văn hóa cho thanh thiếu niên.
- Tham gia các hoạt động thăng tiến con người, đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ, các bệnh nhân và những người bị áp bức.
- Chị em còn làm việc tông đồ bằng cầu nguyện, hy sinh và chứng tá đời sống.
* Dòng Con Đức Mẹ vô nhiễm
Dòng thành lập ngày 8.9.1920 tại Kim Long, Huế do Đức Giám mục Eugène Marie Joseph Allys (Lý) và Đức Giám mục Alexandre Paul Marie Chabanon (Giáo).
Bổn mạng: Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Tổ chức: Nhà Mẹ và các cộng đoàn. Đứng đầu là bề trên.
* Dòng Con Đức Mẹ đi viếng
Năm 1924, linh mục Giuse Trần Văn Trang lập tại làng Kim Đôi với tên gọi là dòng Mến Thánh giá Kim Đôi. Năm 1938, dòng cải tổ theo Giáo luật với lời khấn đơn, tạm và trọn đời và mang danh xưng là dòng Mến Thánh giá phục hưng. Năm 1965, vì chiến tranh, phải dời lên Bãi Dâu, Phú Hậu, Huế, đổi tên thành dòng Con Đức Mẹ đi viếng.
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ đi viếng ngày 31.5.
Châm ngôn - Mục đích:
- Sống tinh thần nghèo khó, đơn sơ, phó thác.
- Sống tinh thần truyền giáo theo gương Mẹ Thăm viếng, đặc biệt đến với người nghèo và anh em tôn giáo bạn.
Hoạt động chính:
- Cộng tác với các linh mục trong hoạt động mục vụ truyền giáo ở các giáo xứ.
- Giáo dục thăng tiến giới trẻ, giới nữ trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, luân lý và đức tin.
- Cầu nguyện, thăm viếng, truyền giáo cho anh chị em lương dân, giúp đỡ phát triển đời sống tinh thần và vật chất cho người nghèo.
* Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi
Dòng lập ngày 8.9.1946 bởi Đức Giám mục Đôminicô Maria Hồ Ngọc Cẩn. Dòng thuộc quyền địa phận. Năm 1954, các nữ tu của dòng di cư vào Nam lập trụ sở tại Chí Hòa (Sài Gòn).
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Mân Côi ngày 7.10.
Mục đích: “Với Mẹ, vì Mẹ Mân Côi / Yêu thương phục vụ ấy đời của con”. Châm ngôn đó nói lên linh đạo dòng: Nhờ Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu qua cách sống các mầu nhiệm Mân Côi.
Hoạt động: Thực hiện công việc tông đồ tại các xứ, họ.
Ngoài ra còn một số dòng nữ tu khác.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận