Công giáo với văn hóa Việt Nam từ năm 1975 đến nay
Trong Thư mục vụ năm 2000, các mục tử đưa ra một dạng thức mới: “Việc mừng hai mươi năm Hội đồng Giám mục Việt Nam toàn quốc ra Thư chung năm 1980 với đường hướng mục vụ: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” thúc đẩy chúng ta sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng theo cung cách Việt Nam”. Khác với Thư chung 1992 và Thư chung 1998, các giám mục qua Thư mục vụ này chi tiết hóa những nội dung hay vấn đề đặt ra cho hội nhập văn hóa Công giáo với văn hóa Việt Nam, Thư mục vụ 2000 khi đưa ra đường hướng sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng theo cung cách Việt Nam, đã không có sự cụ thể hóa về mặt nội dung, nhưng có thể hiểu đó là cách nhấn mạnh, làm rõ hơn những vấn đề hội nhập được đề cập bởi Thư chung 1980, 1992, 1998.
![]() |
Giáo tỉnh Hà Nội giao lưu ngắm đứng - nét hội nhập và bảo tồn văn hóa |
Thư chung năm 2001 “Để họ được sống và sống dồi dào” như là sự tổng kết bước đầu chặng đường 21 năm thực hiện Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Thư chung viết: “Khi đất nước mới thống nhất, Thư chung ngày 1.5.1980 mở ra đường hướng “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc, xây dựng một nếp sống và một cách diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc”, nhằm tạo điều kiện cho hạt giống Tin Mừng Chúa Kitô tiếp tục đơm bông kết trái trên thửa đất quê hương chúng ta”.
Năm 2010, cùng với việc kỷ niệm Năm Thánh 2010, Giáo hội Công giáo Việt Nam tiến hành Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010. Đại hội tổ chức tại Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 21 đến 25.10.2010. Văn kiện chính trong Đại hội Dân Chúa là Tài liệu làm việc. Tài liệu làm việc được biên soạn trên cơ sở Đề cương “Giáo hội Mầu nhiệm - Hiệp thông - Sứ vụ” do Hội đồng Giám mục biên soạn, gởi các giáo phận góp ý.
Hội đồng Giám mục Việt Nam lần thứ XI chính thức phê chuẩn Tài liệu làm việc trước khi đưa ra Đại hội Dân Chúa. Tài liệu làm việc có nhiều nội dung, trong đó có nội dung về hội nhập văn hóa Công giáo với văn hóa Việt Nam.
Đó trưởc hết là tính bản địa và hội nhập văn hóa. Với nội dung này, Tài liệu làm việc chỉ rõ: “Theo khuôn mẫu của mầu nhiệm nhập thể, đặc tính bản địa, luôn gắn liền với sự hiện diện của Giáo hội trong từng địa phương và trong lòng mỗi dân tộc trên thế giới. Thật vậy, “người Kitô hữu không khác với người khác về ngôn ngữ, tập tục...”. Cũng như thế, Giáo hội tại Việt Nam, miễn sao không đánh mất bản chất của Giáo hội Chúa Kitô... Giáo hội Việt Nam nỗ lực khám phá những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa dân tộc, đồng thời cố gắng làm cho những giá trị đó được diễn tả “trong lời kinh, tiếng hát, trong cử hành phụng vụ, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong suy tư và ngôn ngữ thần học” (Đoạn 8).
Muốn hội nhập văn hóa ở một nước đa tôn giáo, có nền văn hóa lâu đời như Việt Nam, một trong những mục tiêu thi hành Sứ vụ mà Tài liệu làm việc đặt ra là đối thoại và hợp tác. Với việc đối thoại được chỉ ra trước hết là với tôn giáo bạn. Đoạn 21 viết: “Tâm thức người Việt không quá chật hẹp, sẵn sàng chấp nhận sự trao đổi và hợp tác giữa các tôn giáo. Tuy thế, vì nhiều lý do khác nhau, Giáo hội tại Việt Nam còn nhiều hạn chế trong việc đối thoại với các tôn giáo bạn và còn phải học hỏi nhiều từ kinh nghiệm của các Giáo hội trong các quốc gia khác tại Á châu. Những cuộc gặp gỡ và trao đổi với các tôn giáo bạn chắc chắn sẽ tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho việc cộng tác nhằm lành mạnh hóa xã hội và thăng tiến con người. Mặt khác, nhờ việc đối thoại và hợp tác vởi các tôn giáo khác, Giáo hội càng xác lập rõ nét hơn về bản chất của chính mình”.
Với nền văn hóa dân tộc Việt Nam: Giáo hội tại Việt Nam nhận thấy, muốn công việc truyền bá Tin Mừng có hiệu quả, muốn thực hiện được tính dân tộc và hội nhập văn hóa tất yếu phải tìm hiểu bản sắc dân tộc Viêt Nam, để từ đó tìm ra những phương pháp diễn đạt đức tin Công giáo thích hợp. Đoạn 22 của Tài liệu làm việc sau khi chỉ ra những nét đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam, cho rằng đã có sự gặp gỡ giữa Tin Mừng của Chúa với nền văn hóa truyền thống Việt Nam: “Nền văn hóa Việt Nam mang nhiều giá trị đáng trân trọng và có thể trở thành những nẻo đường thuận tiện để Giáo hội tại Việt Nam tiến bước trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thật vậy, văn hóa dân tộc Việt Nam vốn coi trọng nghĩa đồng bào, đạo hiếu trung, đồng thời cũng đề cao lòng hiếu khách, đức hy sinh vị tha, tinh thần nhân ái hài hòa, và đặc biệt luôn quý trọng đời sống tâm linh. Đây chính là những điểm gặp gỡ gần gũi với Tin Mừng của Chúa Kitô”.
Việc hội nhập văn hóa Kitô giáo với văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam một thời gian dài mang tính tự phát, bởi những người dân, tín hữu sống ở làng giáo - xứ họ đạo. Sau Công đồng Vatican II, đặc biệt là đến Thư chung 1980, mới được Giáo hội Công giáo Việt Nam chính thức xác quyết. Một số Thư chung và Thư mục vụ làm sáng tỏ, nhưng có những vấn đề hiện mới chỉ ở giai đoạn đầu, chẳng hạn như vấn đề “gặp gỡ và trao đổi với các tôn giáo bạn”. Có lẽ vì vậy mà Tài liệu làm việc, đoạn 43 đề cập đến 3 vấn đề hết sức cụ thể, sát sườn: (1) Định hướng; (2) Ưu tiên mục vụ; (3) Kế hoạch thực hiện.
![]() |
Rước kiệu Kỳ Yên ở giáo xứ Định Hải, Bùi Chu |
1. Định hướng
Trong mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã thật sự hòa nhập vào nền văn hóa Do Thái, đồng thời Người đưa vào đó Tin Mừng là chính bản thân Người, để mang lại ý nghĩa mới và tính vĩnh cửu cho những gì Người đã đón nhận. Cũng thế, Giáo hội tại Việt Nam trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa dân tộc. Đồng thời, Giáo hội nỗ lực đưa những giá trị cao đẹp của văn hóa đó vào lời kinh tiếng hát, cử hành phụng vụ, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong ngôn ngữ, suy tư thần học.
2. Ưu tiên mục vụ
a) Trân trọng, học hỏi, giữ gìn và phát huy những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam cũng như trong các tôn giáo bạn.
b) Tiến hành cuộc đối thoại sinh động giữa Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô và nền văn hóa dân tộc cũng như với các tôn giáo.
3. Kế hoạch thực hiện
a) Trong việc đào tạo chủng sinh, giáo lý viên, văn hóa Việt Nam phải được đưa vào chương trình học. Cũng vậy, cần phải dành cho việc tìm hiểu các tôn giáo bạn một chỗ đứng trong chương trình đào tạo nhân sự cho Giáo hội tại Việt Nam.
b) Thúc đẩy việc nghiên cứu, tìm kiếm hạt giống Lời Chúa trong văn hóa dân tộc Việt Nam.
c) Đầu tư nhân lực và tài lực cho việc phát huy nền thần học, phụng vụ, tu đức phù hợp với những sắc thái tích cực trong văn hóa Việt Nam.
Trong Đại hội, vấn đề hội nhập văn hóa được nhiều đại biểu tham dự thảo luận sôi nổi, đề xuất những ý kiến gợi mở như: “Trong việc diễn đạt đức tin bằng hội nhập văn hóa cần học hỏi nơi Phật giáo”. Hội nhập văn hóa không phải chỉ là quan tâm đến bên ngoài, mà quên đi đời sống tinh thần, điều cần là làm sao để sống tình yêu - mầu nhiệm - Chúa Kitô trong bối cảnh hôm nay. Và trong bối cảnh này, không chỉ có giáo dân mà có cả dòng tu cũng cần hội nhập (chẳng hạn đạo hiếu đối với người Việt Nam); không chỉ dành cho giáo dân, mà cho cả linh mục, tu sĩ, nên có sự thay đổi ở một vài nhà dòng để không cứng nhắc với quy định: “Khi bố mẹ chết, người đi tu không được về”. Có ý kiến cho rằng, cần có đội ngũ chuyên viên hướng dẫn. “Hội nhập mà không đánh mất căn tính” cũng là một trong những điều mà các đại biểu đưa ra phần đúc kết sau thảo luận[1].
Như vậy với lĩnh vực hội nhập văn hóa, Tài liệu làm việc qua đoạn 43 nêu lên đường hướng có tính chất dài lâu, hướng ưu tiên cụ thể và kế hoạch thực hiện sát sao. Đồng thời vấn đề còn được làm sáng tỏ thêm qua những ý kiến đóng góp, thảo luận tại Đại hội của các thành phần Dân Chúa.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 1786, tuần lễ từ 3.12 đên 9.12.2011.
Bình luận