Chúa Giêsu nói với nhân loại: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Bình an hay hòa bình là gì?
Từ “bình an” hay “hòa bình” bắt nguồn từ nguyên ngữ Shalom của tiếng Do Thái, chuyển sang tiếng La Tinh là Pax, sang tiếng Anh là Peace, tiếng Pháp là Paix. Bình an hay bình yên được hiểu là tình trạng không gặp điều gì không hay xảy ra làm ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của cá nhân hay tập thể nhỏ; còn hòa bình là tình trạng yên ổn, không có chiến tranh đối với tập thể lớn, một dân tộc hay cả thế giới. Đó là ý nghĩa người ta thường hiểu. Tuy nhiên, muốn hiểu được hết ý nghĩa của từ này và muốn thật sự xây dựng được hòa bình, con người phải tìm hiểu sâu xa hơn nữa.
Theo Thánh Kinh, hòa bình chỉ sự an lạc của cuộc sống thường ngày, chỉ trạng thái con người sống hòa hợp với thiên nhiên, với người khác, với chính mình và với Thiên Chúa. Như thế, hòa bình đồng nghĩa với mạnh khỏe, trường thọ, an ninh, không phải run sợ trước kẻ thù, sống thuận hòa trong tình huynh đệ với mọi người. Hơn nữa, hòa bình là điều thiện đối nghịch với điều ác, là tất cả những ơn lành người công chính được thừa hưởng như: có đất phì nhiêu, ăn uống thỏa thuê, sống an ninh, ngủ yên giấc, chiến thắng kẻ thù, đông con nhiều cháu, dư đầy hạnh phúc, vì có Thiên Chúa ở cùng. Như thế, hòa bình chính là ân huệ lớn lao của Thiên Chúa, nhưng cũng là kết quả của công lý, công bình. Con người nhận được ân huệ này không phải chỉ bằng lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà còn bằng hành động công bình. Sống liêm chính là con người cộng tác với Thiên Chúa trong việc thiết lập hòa bình trên địa cầu.
Hòa bình không chỉ đến từ các hiệp ước chính trị dựa trên cân bằng sức mạnh hay kinh tế, bởi lịch sử cho thấy chúng không đảm bảo sự yên ổn và hạnh phúc. Hòa bình thực sự là kết quả của cuộc chiến trường kỳ giữa thiện và ác, đòi hỏi con người từ bỏ tội lỗi, tham vọng, dục vọng gây chia rẽ. Chỉ khi tội lỗi được xóa bỏ, hòa bình mới trọn vẹn. Điều này chờ đợi “Hoàng tử Hòa bình” - Đức Giêsu Kitô - mang đến nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,6; Dcr 9,9-10).
Hòa bình của Đức Kitô
Đức Giêsu không phải chỉ chào hỏi và cầu chúc bình an cho con người, mà còn là hiện thân của chính sự bình an khi hoàn lại sức khỏe cho người bệnh tật (x. Lc 8,48), tha thứ tội lỗi cho người thống hối (x. Lc 7,50), làm cho bánh cá hóa nhiều để hàng ngàn người được no nê (x. Lc 9, 10-17), cho người chết sống lại để chứng tỏ Người chính là sự sống lại và là sự sống (x. Ga 11,1-41). Người còn xua trừ ma quỷ để tìm lại bình an cho con người và vạn vật (x. Lc 8,26-38), làm cho gió im, biển lặng để tạo ra bình an cho trời đất (x. Mc 4, 35-41), đúng như lời các thiên thần loan báo khi Người sinh ra: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (x. Lc 2,14). Vì vậy, Đức Giêsu chính là vị hoàng tử hòa bình được tiên báo trong Thánh Kinh.
Hơn nữa, sau cái chết tự nguyện của Người trên thập giá để hòa giải muôn loài với Chúa Cha, Người đã chiến thắng vĩnh viễn sự chết, để tất cả những ai tin vào Người sẽ không còn bị sự chết chi phối (x. Ga 11,26). Rồi Người đã sống lại để phục hồi sự sống nguyên tuyền, kỳ diệu của Thiên Chúa cho tất cả những ai hòa hợp thành một với Người. Các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh chứng minh điều đó. Đây mới là sự bình an hay hòa bình trọn vẹn và bất tận của Chúa Giêsu Kitô.
Vì thế trong lần hiện ra đầu tiên với các môn đệ, Chúa Giêsu Phục Sinh nhắc đến thứ bình an đặc biệt này: “Bình an cho anh em. Rồi Người thổi hơi trên các môn đệ và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (x. Ga 20, 19-21). Sự bình an này luôn kèm theo Thần Khí của Thiên Chúa (x. GLHTCG số 736; 1832 ) để tạo thành những con người mới đầy tràn ân huệ của Chúa Thánh Thần, để cùng Người xây dựng hòa bình, cũng là đem lại ơn cứu độ cho muôn loài. Vì thế, Người với chúng ta: “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” (x. Ga 20,21), “Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (x. Mt 5,9).
Việc xây dựng bình an này đòi hỏi người môn đệ Chúa Giêsu mở rộng tâm hồn để tích cực hành động cho mọi giá trị tinh thần như sự thật, công lý, tự do, tình yêu và cũng là xây dựng nền nhân bản toàn diện và liên đới cho con người (x. Học thuyết Xã hội Công giáo, số 6, 7, 19, 82, 98, 327, 383). Đó không phải là thứ bình an giả tạo, câu nệ vào việc giữ những tục lệ, luật pháp cũ cũng như mới, những nghi lễ phung vụ hình thức bên ngoài, như đã xảy ra thời Giáo hội sơ khai mà bài sách Công vụ kể lại (x. Cv 15,1-29). Các tông đồ đã phải nhắc nhở các tín hữu thời đó rằng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết”.
Cộng đồng của những con người mới sống trong nền hòa bình viên mãn đó đã được bài sách Khải Huyền mô tả như là “thành thánh Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa”. Thành không phải chỉ có một cửa mà có tới 12 cửa mở ra bốn phương Đông Tây Nam Bắc để đón nhận mọi dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, hệ tư tưởng…, nghĩa là tất cả mọi người và vạn vật đã được Đức Giêsu tẩy sạch bằng máu thánh của Người. Trong thành không có đền thờ với những nghi lễ khác nhau vì “Thiên Chúa Toàn Năng và Con Chiên là đền thờ của thành” (x. Kh 21, 10-23).
Cộng đồng hòa bình và hạnh phúc đó đang mời gọi chúng ta gia nhập nếu biết dấn thân xây dựng hòa bình bằng những hành động tích cực cho mọi người, mọi vật trong đời sống hằng ngày, nhất là cho những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi, để không ai bị bỏ lại phía sau.
“... Dấn thân xây dựng hòa bình bằng những hành động tích cực cho mọi người, mọi vật trong đời sống hằng ngày...”
Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Bình luận