Lc 15,1-32
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ, phụ trách
1. Bạn hãy tìm những điểm chung trong ba dụ ngôn “Chiên lạc”, “Đồng bạc bị mất” và “Người cha nhân hậu”. Theo bạn, vì sao Đức Giêsu kể ba dụ ngôn này?
- Hai dụ ngôn đầu tiên có điểm chung giữa người đàn ông mất chiên và người phụ nữ mất tiền. Đó là cả hai đều đã mất (một con chiên hay một quan tiền), đã đi tìm, đã tìm thấy, và mời bạn bè hàng xóm đến chung vui với mình. Hai dụ ngôn này còn khá giống nhau ở câu cuối của mỗi dụ ngôn: “…ai nấy cũng vui mừng vì một người tội lỗi hối cải” (cc.7 và 10). Đây là niềm vui của những người “ở trên trời” (c.7), hay của “triều thần Thiên Chúa” (c.10). Dụ ngôn thứ ba, tuy không dùng những từ giống với hai dụ ngôn trước, nhưng cũng có thể nói người cha đã mất con, đã gặp lại con, và đã mở tiệc ăn mừng (Lc 15,11-32). Đức Giêsu kể ba dụ ngôn này để đáp lại chuyện những người Pharisêu và các kinh sư trách Ngài đã đón tiếp và ăn uống với người tội lỗi (Lc 15,1-3). Đơn giản, Ngài chỉ muốn đưa họ về với Cha.
2. Hãy kể lại con đường từ hư hỏng đến hoán cải của người con thứ?
- Người con thứ hư hỏng một cách từ từ. Anh chán sống bên cha, đòi cha chia phần gia sản cho anh (1/3 tài sản). Anh muốn đi đến một “vùng xa”, nơi anh được hưởng thụ phung phí tài sản do cha để lại. Nhưng không ngờ, “vùng xa” đó lại là “vùng đói khủng khiếp” (c.14), vùng anh phải làm một nghề hạ tiện là chăn heo (c.15), vùng nơi cái chết đói rình rập (c.17). Chính hoàn cảnh bi đát đó khiến anh hồi tâm, ăn năn và muốn trở về nhà cha mình.
3. Người con thứ có hoán cải thực lòng không? Lòng hoán cải của anh có từ từ trở nên trọn vẹn không?
- Người con thứ muốn trở về nhà cha mình khi anh thấy nguy cơ chết đói (c.17). Từ đó anh quyết định trở về nhà cha, để được no đủ, nhờ làm công cho cha. Tuy nhiên, đó không phải là lý do duy nhất khiến anh trở về, bởi lẽ anh đã bắt đầu có lòng ăn năn về tội của mình (Lc 15,18-19). Lòng hoán cải của anh tuy còn chút vị kỷ, nhưng không hề giả dối. Có lẽ khi được người cha ôm hôn, anh mới cảm nhận được tình thương bao la của cha, và lúc đó anh có được lòng hoán cải trọn vẹn.
4. Cho biết những hành động và lời nói cho thấy người cha tôn trọng và yêu thương, tha thứ người con thứ.
- Người cha tôn trọng người con thứ được biểu lộ qua việc người cha không đi tìm anh như người đi tìm con chiên hay đồng quan. Cha chỉ chờ đợi anh trở về vì cha tôn trong tự do của anh. Người cha yêu thương tha thứ cho người con thứ, điều này được biểu lộ qua việc ông “chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh mà hôn” (c.20). Sau đó ông còn cho anh áo đẹp, nhẫn, dép, và nhất là mở tiệc ăn mừng với con bê béo (cc. 22-23). Động từ ăn mừng được nhắc nhiều lần (Lc 15,23.24.29.32).
5. Chỉ ra hành động và lời nói cho thấy người cha tôn trọng và yêu thương tha thứ người con cả.
- Người cha tôn trọng người con cả: khi thấy anh “nổi giận không chịu vào nhà” (c. 28), chính người cha đã đi ra và đã năn nỉ anh để anh vào. Người cha đã đón nhận cách bình tĩnh cơn giận của anh, đã nghe lời trách móc đầy ghen tỵ của anh (c. 29), và đã chịu đựng những lời lẽ hỗn hào của anh (c. 30). Ông cho thấy ông chẳng giữ gì cho mình (c. 31), và ôn tồn giải thích cho anh ấy hiểu tại sao phải ăn mừng (c. 32). Thái độ của người cha cho thấy ông yêu người con cả, người đã ở với ông và làm việc cho ông, dù không hiểu ông. Ông không muốn thiếu người con cả trong bữa tiệc vui này. Ông không muốn mất một người con nào.
6. Con thứ và con cả có những điểm gì giống nhau?
- Con thứ và con cả thật khác nhau, nhưng khi nhìn kỹ, hai khuôn mặt lại có những nét giống nhau. Người thì bỏ nhà ra đi, kẻ thì không chịu vào nhà. Cả hai đều phải chịu đói nếu cứ đứng ngoài nhà cha. Con thứ xa cha, nhưng con cả cũng chẳng gần cha. Tim anh ấy không đập cùng một nhịp với tim cha: khi cha vui vì con thứ về, thì anh lại buồn. Anh không vui được niềm vui của cha. Anh tự hào vì mình không trái lệnh cha (c.29) nhưng anh lại rất xa cha vì không hiểu nổi cách cư xử của cha (c.30). Con thứ thật bất hiếu với cha khi đòi cha chia gia tài và phung phí hết sạch, nhưng con cả cũng hỗn hào khi gọi em mình là “thằng con của cha” (c.30).
7. Khi đọc dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, bạn có gặp những nét quan trọng của Bí tích Hòa giải không?
- Qua chuyện người con thứ trở về với cha, ta thấy có những nét chính của bí tích Hòa giải. Anh con thứ đã hồi tâm, nghĩa là đã xét mình (c. 17). Anh đã ăn năn tội trong lòng và đã nói với cha câu này: “Con thật đắc tội với Trời và với cha…” (cc. 18.21). Anh đã nghĩ đến việc đi xưng tội và đã thực hiện điều anh nghĩ: “Thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người rằng…” (cc. 18.20). Anh đã đề nghị việc đền tội: “Xin coi con như người làm công cho cha” (c.19). Cuối cùng là ơn xá giải: người cha tha thứ cho anh, không phải bằng lời nói, nhưng bằng cách ôm lấy anh và trả lại cho anh tất cả những gì anh đã mất khi đi hoang, trả lại cho anh chức vị làm con (cc. 20-24). Dụ ngôn không nói về việc anh dốc lòng chừa, nhưng chúng ta hy vọng anh sẽ không bao giờ đi hoang nữa.
GỢI Ý SUY NIỆM Theo bạn, người con thứ trở về nhà cha có khó không? Người con cả chấp nhận vào nhà để dự tiệc với người em và chung vui với cha có khó không? Trở về với Cha đòi hỏi ta có những thái độ nào? |
Bình luận