Vào Chúa nhật Truyền giáo, Giáo hội muốn mời gọi nhận thức rõ hơn về sứ mệnh loan báo Tin Mừng của từng tín hữu Kitô và bản chất truyền giáo của Giáo hội. Tuy nhiên, công cuộc này chưa có hiệu quả ở Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Các số liệu thống kê của Giáo hội cũng như của các tổ chức khác đã chứng minh điều đó. Vì thế, chúng ta cùng tìm hiểu nguyên nhân bắt nguồn từ đâu và cần phải làm gì để truyền giáo hiệu quả.
Từ việc không đổi mới ngôn ngữ để hội nhập văn hóa
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XIII năm 2012 với chủ đề “Tân Phúc Âm hóa để thông truyền đức tin Kitô” yêu cầu đổi mới ngôn ngữ vì muốn cho con người ngày nay nghe và hiểu, nên phải dùng ngôn ngữ của họ. Đó cũng là yêu cầu của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI năm 2021, nhắc phải “đồng hành”.
Hãy nhìn vào các sân vận động, các tụ điểm giải trí ở nhiều nước Âu Mỹ trong những ngày cuối tuần đông nghẹt người tham dự, trong khi nhà thờ rộng lớn chỉ lèo tèo vài chục ông già, bà lão trong một góc nhỏ dự lễ, mới thấy mình cần phải đổi mới ngôn ngữ truyền giáo. Giới trẻ ngày nay thờ ơ với tôn giáo, nhất là Kitô giáo, bởi vì con người thời nay chú tâm vào khoa học với những lý chứng cụ thể, vào những nhu cầu vật chất cần thiết mỗi ngày, vào các thần tượng hiển hiện ngay trước mắt qua các diễn viên, nghệ sĩ, cầu thủ, danh nhân thành đạt, thế chỗ cho các nhà tu hành, đạo đức, triết học, thần học của các thế kỷ qua.
Đáng lẽ mỗi người phải là chứng nhân của Chúa Giêsu và nói về Người bằng ngôn ngữ của thời đại như các tông đồ xưa, thì ta lại được dạy bảo cứ dùng thứ ngôn ngữ “kinh điển” của thời trung cổ, cận đại, trong các trường lớp, tu viện và chủng viện, để bảo đảm là giữ đúng truyền thống đức tin. Có lẽ vì thế mà ai cũng ngại ngùng, không biết phải nói về Chúa Giêsu như thế nào để thu phục người nghe. Chúng ta ít quan tâm đến việc hội nhập văn hóa của thời đại mới, như Công đồng Vatican II đã dạy.
Tiếp nối định hướng của Công đồng, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nhấn mạnh đến văn hóa và việc hội nhập văn hóa hàng trăm lần trong tông huấn “Giáo hội tại châu Á”, công bố ngày 6.11.1999 tại New Dehli, Ấn Độ. Ngài nhắc nhở rằng: “Nhờ hội nhập văn hóa, Giáo hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn, giúp người ta hiểu được bản chất của mình, đồng thời cũng trở thành một dụng cụ đắc lực hơn để thi hành sứ mệnh” (x. Tông huấn số 21; Tông thư Sứ vụ Đấng Cứu thế, số 52, năm 1991).
Việc giới thiệu Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ của Người cho một cá nhân hay cho một dân tộc tùy thuộc vào trình độ văn hóa của cả người nói lẫn người nghe. Người nói phải có đủ trình độ nhất định để có thể chọn lựa từ ngữ thích hợp theo đúng ngôn ngữ của người nghe, cũng như phải hành động tích cực theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, thì mới hy vọng truyền giáo kết quả. Lịch sử truyền giáo của Giáo hội Công giáo toàn cầu cũng như ở Việt Nam đã chứng minh, càng hội nhập văn hóa, việc truyền giáo càng hiệu quả.
Hoạt động truyền giáo này cũng tương tự như mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu. Người là Ngôi Lời Thiên Chúa vô hình đã mang lấy thân xác, hóa nhập vào thế giới hữu hình, đón nhận nền văn hóa cụ thể của dân tộc Do Thái để rao giảng về Chúa Cha và giới thiệu con đường sự thật và sự sống cho nhân loại. Người cũng dùng cách suy nghĩ, các từ ngữ, tâm tình, hành vi của con người cùng thời với mình để loan báo Tin Mừng cứu độ và truyền cho các môn đệ tiếp tục công trình này. Đây là hoạt động gọi là hội nhập văn hóa, nghĩa là đem những giá trị vô cùng cao quý của Thiên Chúa hòa nhập vào đời sống con người và biến đổi những giá trị tốt đẹp của con người thành cao quý, siêu việt của Thiên Chúa.
Nên làm gì để truyền giáo hiệu quả?
Thử tưởng tượng nếu Đức Giêsu không mang một thân xác cụ thể, không dùng ngôn ngữ Do Thái mà dùng tiếng Latinh của người Rôma đang cai trị toàn cầu vào thời điểm đó, không nói những lời đầy uy quyền để dạy sự thật, không làm những phép lạ để giúp cho người đói được no nê, người bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, người bị ma quỷ kiềm chế được giải thoát, người chết được sống lại và chính Người không tự nguyện chết nhục nhã trên thập giá để đền tội thay cho muôn loài và sống lại để phục hồi sự sống vĩnh hằng, thì ai sẽ tin vào Tin Mừng của Người?
Vậy mà, rất nhiều người trong chúng ta lại đang giới thiệu một Đức Giêsu “phi xác thể” (x. Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium, số 89; thư ngày 17.7.2024, số 14) hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ thời đại, như thể Người đến từ một hành tinh xa lạ nào đó ngoài vũ trụ, với những lời rao giảng không dùng những sự thật của khoa học để chứng minh, mà chỉ để cổ vũ những phong trào đạo đức gồm các nghi lễ hình thức bên ngoài; không củng cố lời rao giảng bằng những hành động đầy quyền năng như Chúa Giêsu và môn đệ trước đây; không chứng minh một tình yêu đến cùng, để sẵn sàng chịu chết và sống lại như Người thì làm sao con người thời nay tin theo lời chúng ta được?
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong thư ngày 17.7.2024 mới đây, khi bàn về “vai trò của văn chương trong việc đào tạo linh mục, tu sĩ và Kitô hữu”, đã nhắc nhở về việc hội nhập văn hóa (x. số 10-11) để có thể loan báo một Đức Giêsu đích thực cho mọi người, giúp họ gặp gỡ được Người trong thân xác con người cũng như trong lịch sử hiện tại: “Xác thân ấy bao gồm các khát vọng, các tình cảm và các cảm quan, là những lời thách thức và an ủi, là những bàn tay đụng chạm và chữa lành, là những cái nhìn giải phóng và khích lệ, xác thân ấy bao gồm sự nồng nhiệt, tha thứ, phẫn nộ, can đảm, mạnh dạn, tắt một lời, đó là yêu thương” (số 14).
“... Nhờ hội nhập văn hóa, Giáo hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn...” |
Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Bình luận