Quan hệ gia đình, họ tộc của người Việt mình cũng như các dân tộc khác, rõ ràng: cha mẹ, ông bà, chú bác, cô cậu, anh chị em, cháu chắt… Sự nối kết trong phả hệ phát triển theo thời gian làm dày rộng các mối quan hệ cật ruột được nuôi nấng bằng tình thương, bổn phận trong đời sống hàng ngày, họp mặt sinh hoạt tộc họ, duy trì hương khói nhà thờ họ… Một cá nhân, tính hết các quan hệ họ tộc gần xa là cả một bài toán với con số không nhỏ.
Ngoài quan hệ gia đình, huyết thống, họ tộc còn có sự mở rộng tình thân qua các mối gắn kết ngoài ruột thịt như cha mẹ nuôi, anh chị nuôi, và một đặc thù thú vị ở miền Tây là “kết ní”: xây dựng tình cảm với người cùng tuổi thân thiết như anh em trong nhà. Khi qua quá trình tìm hiểu, tôn trọng và tương hợp tính cách, hai người cùng tuổi chọn một cơ hội thích hợp công bố “ní” với nhau, và từ đấy chia sẻ công việc, bổn phận trách nhiệm, gắn bó không khác người thân trong nhà, hình thành một mối quan hệ gia đình mở rộng. Tiệc tùng cưới gả nhất thiết mời ní, hữu sự có mặt ní chia sẻ, như xây cất nhà cửa, làm nông ngày mùa, con cái thi cử… Cha mẹ của ní đau ốm cũng có trách nhiệm cho dù tự giác, không ai ràng buộc, mà xét cho cùng, quan hệ tình cảm giữa ní với nhau là hoàn toàn tự giác. Kết ní phổ biến hơn ở nông thôn, một nét đẹp trong đời sống làng xã.
Với nét tương tự kết ní ở miền Tây, có thể kể đến sự kết nghĩa anh em ở các vùng miền khác có nguồn gốc xa xưa “anh em cắt máu kết nghĩa họa phúc cùng chia” còn để lại dấu ấn trong tuồng, văn học cổ. Tương tự song không hoàn toàn trùng lặp bởi “ní” nhất thiết cùng tuổi, còn anh em kết nghĩa tuổi tác có thể chênh nhau.
Về vỏ ngôn ngữ từ “ní” ở khu vực miền Tây cộng cư các dân tộc Kinh - Hoa - Khmer, âm tiết cho thấy không phải từ thuần Việt, song từ lâu quan hệ ní nót - theo cách gọi của bà con mình - đã có trong đời sống hiền hòa làng mạc đồng bằng, mộc mạc thân thương một nét riêng.
NGUYỄN THÀNH CÔNG(Bạc Liêu)
Bình luận