Nhân chứng phục sinh

Chúa nhật Phục sinh - Năm B

Bài đọc 1: Cv 10,34a.37-43; Bài đọc 2: Cl 3,1-4; Tin Mừng: Ga 20,1-9.

Trong thời sơ khai của Giáo hội, những lời giảng dạy của các tông đồ mang nội dung chính yếu là sự Phục Sinh của Ðức Giêsu. Nội dung giảng dạy này được gọi là Kerygma. Ðó cũng là chủ đề trọng tâm các cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô với người Do Thái cũng như với dân ngoại. Tại Xêdarê, ông Phéttô báo cáo vua Ác-ríp-pa nhân dịp vua đến thăm: “Họ chỉ tranh luận với ông ta về một số vấn đề liên quan đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một ông Giêsu nào đó đã chết, mà Phaolô quả quyết là vẫn sống”(Cv 25, 19). Giảng về Ðức Giêsu Phục Sinh cũng là một điều gây vấp phạm đối với cử tọa, như trường hợp ở Athena, vừa khi thánh Phaolô nói đến Chúa Giêsu sống lại, thì nhiều người nhạo cười và bỏ về (x. Cv17, 22-32).

Thực ra, khi Chúa bước ra khỏi mồ, không có môn đệ nào chứng kiến. Ngôi mộ trống là khởi điểm cho những câu hỏi được đặt ra, khiến họ hồi tưởng quá khứ để suy tư những lời Chúa đã nói trước. Thế rồi, họ được gặp Chúa Phục Sinh. Lúc đầu họ còn ngờ vực, nhưng rất nhanh sau đó, họ đã nhận ra Người. Họ còn được đàm đạo và ăn uống với Người. Nhờ đó mà họ có cảm nhận rất sâu sắc về Ðấng Phục Sinh.

Sự Phục Sinh của Chúa giúp các tông đồ kiên vững lòng tin vào Thầy mình. Trường hợp hai môn đệ trên đường Emmaus là một minh chứng. Trước khi gặp Chúa, các ông mệt mỏi, thất vọng và đang tính bỏ cuộc, nhưng sau khi nhận ra Thầy, họ tìm lại nghị lực, vui tươi, phấn khởi và lên đường về Giêrusalem ngay trong đêm ấy. Biến cố Phục Sinh cũng giúp cho họ hiểu hơn về giáo huấn của Chúa Giêsu. Quan niệm của họ về Chúa Giêsu được nhìn với nhãn giới “hậu Phục Sinh”, và nhờ đó, họ có một chân dung xác thực về Ðấng Thiên Sai.

Chính chứng từ của các tông đồ đã làm nên sức mạnh của cộng đoàn tín hữu tiên khởi và đem lại hiệu quả nhanh chóng của công cuộc truyền giáo. Những người đương thời với tông đồ không nhìn thấy Ðấng Phục Sinh, nhưng qua cử chỉ, lời nói, và nhất là qua niềm xác tín của những người dân chài chất phác này, họ thấy được Chúa Giêsu đang hiện diện. Họ thấy rằng sự kiện một người đã chết rồi sống lại không thể lý giải được bằng lý trí, nhưng cũng không phải là chuyện tầm phào, vì chứng nhân sẵn sàng lấy mạng sống của mình để làm chứng. Ðối diện với các nhà chức trách đạo cũng như đời, những người dân chài hiền lành này lại rất can đảm, không phải bằng một thứ lý luận uyên thâm, nhưng rất đơn giản và chắc chắn: “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra”(Cv 4,20). Những nhân chứng Phục Sinh là ai? Ðầu tiên, phải kể đến Maria Mađalêna, một người đã nghe lời Chúa giáo huấn mà rũ bỏ quá khứ tội lỗi. Kế đến là những tông đồ, những người đã cùng sống với Chúa, đã chứng kiến những phép lạ Người làm.

Khi mừng lễ Phục Sinh, tôi được mời gọi trở thành nhân chứng của sự kiện Chúa sống lại. Tuy vậy, để có thể làm chứng về Ðấng Phục Sinh, tôi phải biết Người, phải gặp Người và cảm nhận được sự hiện diện của Người trong đời tôi. Tôi không thể làm chứng về một người hay một sự việc mà tôi không biết chắc chắn về người hay sự việc đó. Làm nhân chứng cho Ðấng Phục Sinh phải là người đã gặp gỡ Chúa trong đời. Ðây là một sứ mạng khó khăn. Người làm chứng đôi khi phải chấp nhận là kẻ “ngược dòng” trong một xã hội xô bồ, phức tạp. Các tông đồ và các thánh tử đạo sau này đã là những người dám đem mạng sống mình để “đặt cược” cho lời chứng về Chúa Giêsu, Ðấng đã chết và đã sống lại. Một chứng từ được cam kết bằng mạng sống sẽ có tính thuyết phục mạnh mẽ và làm cho người khác tin. Xác tín nơi Ðấng Phục Sinh, các tông đồ khi bị đánh đòn và bạc đãi, nhưng thật lạ lùng, các ông lại“hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Ðức Giêsu”(Cv 5,41).

“Bà Maria ơi, trên đường bà thấy những gì? Xin kể cho chúng tôi nghe”(Ca Tiếp liên lễ Phục Sinh). Ngày hôm nay, xung quanh tôi, có biết bao người đang đặt câu hỏi này cho tôi. Tôi đã thấy những gì? Tôi có gặp Ðấng Phục Sinh giữa đời tôi hay không? Sự hiểu biết Chúa của tôi có thâm sâu đến mức tôi có thể kể cho mọi người nghe về Người? Tôi có diễn tả hình ảnh Ðấng Phục Sinh trong đời sống của tôi hay không? Tôi có biết rõ Chúa Giêsu hay tôi chỉ biết về Người như một nhân vật của huyền thoại hoặc một nhân vật của lịch sử? Sự hiểu biết Chúa phải dẫn tôi đến việc biến đổi canh tân cuộc đời, để tôi được sống lại với Chúa. Nói cách khác, chính Chúa Phục Sinh sống trong tôi và làm đổi mới tận căn cuộc đời tôi, đến mức “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Ðối với những người đang đau khổ vì bệnh tật, vì đói nghèo, vì bất công, tôi làm thế nào để kể cho họ nghe về Ðấng Sống Lại đã đồng hành nâng đỡ hai môn đệ trên đường Emmaus, giúp họ tìm lại nghị lực và niềm tin? Với những người đang sống trong chia rẽ bất hòa, tôi làm thế nào để kể cho họ nghe về Ðấng Sống Lại đang yêu thương tha thứ? Chứng từ Phục Sinh phải đến từ cuộc sống an bình, vui tươi và thấm đượm ân sủng.

Hiểu được như trên, mỗi tín hữu sẽ trở thành một nhân chứng của Ðấng Phục Sinh giữa đời thường. Họ sẽ làm lan tỏa đến mọi môi trường cuộc sống niềm vui của Tin Mừng và tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Qua cuộc sống bác ái yêu thương và thánh thiện hài hòa, người Kitô hữu khẳng định với thế giới hôm nay: Ðức Kitô đang sống và tôi đã gặp Người!

Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên - TGP Hà Nội

Chia sẻ:

Bình luận

có thể bạn quan tâm

Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXVI thường niên - năm C
Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXVI thường niên - năm C
Không phải cứ giàu sang thì thế nào cũng phải khốn khổ và bị Thiên Chúa phạt. Người giàu chỉ bị phạt khi không biết sẻ chia, đơn cử như ông nhà giàu trong dụ ngôn "Ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó".
Giàu có và thái độ các tín hữu
Giàu có và thái độ các tín hữu
Thiên Chúa cho một số người trong dân được giàu có. Nếu đây là một phúc lành, thì nó phải được dùng theo đường lối Chúa.
Có một vực thẳm
Có một vực thẳm
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới. Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXVI thường niên - năm C
Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXVI thường niên - năm C
Không phải cứ giàu sang thì thế nào cũng phải khốn khổ và bị Thiên Chúa phạt. Người giàu chỉ bị phạt khi không biết sẻ chia, đơn cử như ông nhà giàu trong dụ ngôn "Ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó".
Giàu có và thái độ các tín hữu
Giàu có và thái độ các tín hữu
Thiên Chúa cho một số người trong dân được giàu có. Nếu đây là một phúc lành, thì nó phải được dùng theo đường lối Chúa.
Có một vực thẳm
Có một vực thẳm
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới. Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXV thường niên - năm C
Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXV thường niên - năm C
Anh quản lý trong dụ ngôn là một kẻ bất lương. Ông chủ đã nghe người ta tố cáo anh ta về sự phung phí tài sản của ông, nên ông muốn cho anh nghỉ việc. Đ
Bội giáo
Bội giáo
Vào thời đầu của Giáo hội, bội giáo là một trong ba tội mà người ta cho rằng không thể tha thứ được. Sau đó, tội được tha nhưng cần có sự đền tội công khai.
Bất lương
Bất lương
Bất lương là cách nói hay hành động nhằm lừa đảo người ta. Lối nói hay hành động như vậy đi ngược lại ý muốn và bản tính Thiên Chúa, nên không được phép trong Dân Chúa.
Ma lực của tiền bạc
Ma lực của tiền bạc
Nếu liệt kê những vụ việc liên quan đến sự cám dỗ của đồng tiền mà người ta vướng vào vòng lao lý, thì danh sách các vụ việc sẽ dường như vô tận.
Sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô
Sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô
Chúa Giêsu đã đến mạc khải Thiên Chúa, loan báo Nước Thiên Chúa đến và cứu độ nhân loại sa ngã qua cái chết của Ngài trên thập tự giá.
Tình thương vô biên
Tình thương vô biên
Trong Tin Mừng, chúng ta luôn bắt gặp hạng người đa nghi, xét nét, dòm ngó người khác. Việc của người thì sáng, việc của mình thì quáng.