Lễ kỷ niệm thánh quan thầy xứ đạo - Một hình thức hội làng Công giáo
Truyền giáo, phát triển đạo Công giáo vào Việt Nam, các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc đồng thời đưa mô hình tổ chức Giáo hội vào Việt Nam để thiết lập từng bước. Tổ chức xứ đạo là tổ chức cơ sở trong hệ thống tổ chức của Giáo hội Công giáo. Thời kỳ đầu truyền giáo cho đến nửa cuối thế kỷ XIX, xứ đạo là một vùng rộng lớn, một huyện hoặc một vài huyện và không theo địa giới hành chính. Trải thời gian khi số lượng tín đồ phát triển, nhiều xứ đạo mới ra đời trên cơ sở tách ra từ một xứ đạo gốc. Trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ dần dần lấy làng, xã làm địa giới lập xứ họ đạo tạo nên làng Công giáo.
Làng Công giáo hay làng giáo, hoặc làng Công giáo toàn tòng là một khái niệm phổ biến đã được sử dụng trong các văn bản hành chính và trong các công trình nghiên cứu lịch sử. Là một loại hình làng Việt, làng Công giáo vừa có những đặc điểm chung lại vừa chứa đựng những đặc trưng riêng do đạo Công giáo quy định.
![]() |
Các giáo sĩ Công giáo nước ngoài khi chọn làng Việt để làm địa giới cho xứ họ đạo, đã phải lồng ghép tổ chức xứ họ đạo vào tổ chức làng Việt truyền thống. Tín hữu Công giáo - cư dân Việt vẫn chịu sự chi phối của văn hóa truyền thống Việt Nam, cụ thể là văn hóa làng với những lễ thức sinh hoạt hội hè truyền thống vốn đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, ở làng Công giáo, tên làng được đặt cho tên xứ, tên nhà thờ: Làng Phú Nhai - xứ Phú Nhai - Ðền thánh (nhà thờ) Phú Nhai; Làng Phát Diệm - xứ Phát Diệm - nhà thờ Phát Diệm. Thánh quan thầy của xứ họ đạo vì vậy được đồng nghĩa với thánh quan thầy của làng đạo. Lễ thánh quan thầy của xứ họ đạo cũng có nghĩa là lễ thánh quan thầy của làng đạo. Ở các làng Công giáo xứ đạo miền Bắc, miền Trung, lễ thánh quan thầy xứ đạo tương đương như một lễ hội, ở đó có phần lễ và phần hội. Lễ hội Công giáo thường diễn ra trong khuôn viên nhà xứ, ít có lễ hội vượt ra khỏi làng Công giáo - xứ đạo. Trong lễ hội, nhà thờ là trung tâm điểm. Không gian nhà thờ là không gian thiêng của làng giáo - xứ đạo.
Ở nhiều làng Công giáo - xứ đạo thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuy không quan niệm nhà thờ là ngôi đình làng nhưng thánh quan thầy làng giáo - xứ đạo được cư dân xem là thần hoàng làng. Ngày kỷ niệm thánh quan thầy là ngày kỷ niệm thần hoàng làng. Ðó không phải là ngày lễ trọng nhưng lại là một trong những ngày vui tươi, náo nhiệt của làng giáo - xứ đạo. Ngoài thánh lễ như bất kỳ thánh lễ nào khác, lễ kỷ niệm thánh quan thầy có những đặc trưng riêng. Cư dân - giáo dân lo chuẩn bị từ những ngày trước lễ: sửa sang đường sá, nhà xứ, nhà thờ, trang hoàng nhà thờ, nhà xứ, dựng cổng chào, chăng hoa, kết đèn. Có thể có cả việc tập dượt những nghi thức, nghi lễ sẽ diễn ra trong ngày lễ. Ở một xứ đạo thuộc địa phận Bùi Chu, để làm được cột cờ cao người ta phải bó rất nhiều cây luông hoặc cây tre lại với nhau, theo kiểu tháp càng lên cao càng ít cây. Trên đó treo cờ Công giáo. Ðể dựng được cây cột cờ cao trên chục mét họ phải dùng dây chão để tời, kéo.
Trước thánh lễ là một cuộc đi kiệu. Trong các cuộc rước kiệu có những đội mõ, trắc, trống, và các hội đoàn như đã trình bày trong những số báo trước.
Buổi tối của dịp lễ thánh quan thầy ở không ít xứ đạo có tổ chức vui văn nghệ. Một sân khấu nhỏ được dựng ở ngoài trời trong khuôn viên nhà xứ. Tiết mục văn nghệ là những bài thánh ca, ca ngợi Thiên Chúa, ca ngợi Ðức Maria hoặc các thánh tông đồ, thánh quan thầy của làng giáo - xứ đạo; nhiều xứ đạo tổ chức diễn kịch, trò tích lấy từ trong Kinh Thánh, từ những câu chuyện về các thánh tử đạo để cổ võ lòng sùng đạo. Cũng có khi vở kịch được sáng tác dựa trên chất liệu cuộc sống, ngợi ca những người biết giữ đạo, phê phán những thói hư, tật xấu mà tín đồ dễ mắc. Vào đầu thế kỷ XX, ở các làng Công giáo - xứ đạo vùng đồng bằng Bắc Bộ, người ta thấy có những vở kịch về thánh tử đạo Lý Mỹ, thánh tử đạo Phêrô Tùy... được dân gian sáng tác và đưa lên công diễn ở nhiều xứ đạo thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ. Một điều đặc biệt là, năm 1691, đời Chúa Nguyễn Phúc Trăn, nhân dịp lễ Ba Vua, các giáo sĩ cho giáo dân Phường Ðúc (Thừa Thiên - Huế) diễn tuồng để mừng lễ. Xứ đạo Truyền Nam (An Truyền, Huế) dịp kiệu Mân Côi tổ chức vào tháng 10 dương dịch, có hình thức múa hèo (gậy). Người trình diễn vừa múa, vừa hát. Lời ca thường là những câu xưng tụng ngợi khen Ðức Maria. Khi kết thúc, người trình diễn được quỳ hướng về tượng. Cũng có khi thay vì cầm hèo (gậy), họ cầm hoa.
Ðể có cái nhìn sinh động và cụ thể, chúng tôi xin trưng dẫn hai hình thức kỷ niệm thánh quan thầy ở hai miền quê khác nhau. Ðó là hình thức kỷ niệm thánh tử đạo ở xứ đạo Ðồng Trì (Hà Nội) và hình thức kỷ niệm thánh quan thày địa phận ờ xứ đạo Phú Nhai (Nam Ðịnh).
Kiệu thánh tử đạo xứ Ðồng Trì
Ðồng Trì là một xứ đạo lâu đời thuộc địa phận Hà Nội. Cũng như các xứ đạo khác, Ðồng Trì có lễ tưởng niệm thánh tử đạo.
Hằng năm cứ độ Xuân về, giáo dân xứ Ðồng Trì tiến hành lễ kỷ niệm thánh tử đạo. Lễ này không chỉ của một xứ đạo mà là của một vùng đạo thuộc huyện Thanh Trì và những xứ đạo nội thành thành phố Hà Nội như các xứ Giáp Bát, Hàm Long, Chánh tòa... Từ mấy ngày trước lễ, giáo dân đã tổ chức kết đèn, hoa, giăng cờ, náo nức chuẩn bị cho ngày lễ.
Lễ được tổ chức vào buổi sáng ngày 18-2. Mở đầu là cuộc đi kiệu. Xứ đạo có hai kiệu vàng bát cống cổ. Ngày lễ, một kiệu dùng để rước hài cốt thánh tử đạo, một kiệu rước Ðức Mẹ. Hai chiếc kiệu đều được lau chùi sạch sẽ, kết hoa tươi nhiều màu, vì thời tiết đang là mùa Xuân.
Trên một chiếc kiệu tựa như long đình có đặt chiếc hòm nhỏ, trong hòm là hài cốt thánh tử đạo. Sáu nhi nữ thướt tha trong bộ quần áo dài màu trắng, đeo lẵng hoa trước ngực. Hoa mùa xuân tươi và thơm được cắt nhỏ. Các nhi nữ đi giật lùi trước kiệu, thay phiên nhau, hai người tung hoa một lượt. Hoa được trữ, được tung thế nào đủ đến hết lượt đi về. Kiệu được 8 người khiêng, 4 người mặc áo vàng, 4 người mặc áo đỏ. Tiếp sau kiệu là 4 chú nhỏ giúp lễ mặc áo liền váy màu trắng, tay chắp trước ngực. Linh mục chánh xứ mặc áo đỏ được che lọng xanh đi kế theo. Kiệu Ðức Mẹ đi sau kiệu Thánh Tử đạo. Kiệu do 4 thanh nữ khiêng. Hai thanh nữ đi đầu mặc áo dài màu vàng, hai thanh nữ đi sau mặc áo dài màu trắng.
Cả hai kiệu đều xuất phát từ trong lòng nhà thờ. Hai kiệu đều được xông hương, linh mục làm phép kiệu. Theo giờ đã định, đám rước bắt đầu sau hiệu lệnh là một hồi chuông gióng giả. Ði trước hết là một chú nhỏ xông hương. Khói hương trầm xanh lam, mùi hương thơm lan tỏa; tiếp sau là các bô lão gồm 12 người mặc áo thụng xanh, 3 người đi đầu, một người cầm thánh giá, hai người đi phía sau cầm nến chân cao, tiếp theo là bát bửu hình lá đề có ghi bốn chữ Hán “Phương danh Thánh Mẫu”; sau đó là hội đoàn với các em nữ, nam, hội trống, hội kèn, hội đoàn của thanh nam, thanh nữ, sau nữa đến hội đoàn của các ông, các bà. Một số hội đoàn có cờ hội, cờ hình chữ nhật, phía trên bằng, phần dưới cắt đuôi nheo. Tên của hội đoàn được thêu trên cờ.
Theo thông lệ, ngày lễ kỷ niệm, một số linh mục ở các xứ đạo quanh vùng cũng về đồng tế. Các linh mục đều mặc áo đỏ. Một trong số họ được mời giảng lễ. Các bài giảng thường ngắn gọn, nội dung toát lên được cuộc đời thánh tử đạo với cái chết mà thánh đã chọn để minh chứng đức tin. Ý nghĩa cái chết được ví như những chùm nho được ép thành rượu ngọt, hoặc như hạt lúa bị nghiền nát để làm thành bánh thơm. Cái chết như hạt giống được gieo trong đất, phải hư nát để mang lại mùa gặt hân hoan.
Cuộc đi kiệu diễn ra trong khuôn viên nhà xứ. Thời gian thường kéo dài khoảng một giờ. Sau kiệu, giáo dân vào nhà thờ tham dự thánh lễ.
(còn tiếp)
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận