LỐI SỐNG CÔNG GIÁO QUA CÁC MỐI LIÊN HỆ
Lối sống của giáo dân qua mối quan hệ với hàng giáo phẩm - tu sĩ
Linh mục được giáo dân gọi là cha1, xưng con theo một thế ứng xử trọng kính, nhưng thân thuộc gần gũi. Thực ra từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước, linh mục được gọi là cụ. Theo cách gọi của người dân đồng bằng Bắc Bộ thì cụ sinh ra cha. Tuy gọi linh mục Việt là cụ, linh mục ngoại quốc là cố (cố sinh ra cụ), nhưng tín hữu vẫn xưng là con.
Ngày nay không còn gọi linh mục là cụ, nhưng tiếng cụ để chỉ linh mục thì vẫn còn. Chẳng hạn chủng sinh được tấn phong linh mục, nhiều người gọi là “đỗ cụ”. Người con “đỗ cụ” thì bố mẹ sinh ra “cụ” được gọi là “ông bà cố”.
![]() |
Giáo dân xứ Bà Trà đón tiếp Đức Giám mục GP Phú Cường |
Cuộc đời mỗi giáo dân gắn với nhà thờ cũng có nghĩa là gắn với linh mục chánh xứ. Lúc mới ra đời họ được linh mục rửa tội, được linh mục giải tội, cho chịu lễ lần đầu. Ở tại nhà thờ, trong một buổi lễ trang trọng, linh mục tổ chức thánh lễ hôn phối lo việc trăm năm cho họ. Người giáo dân khi làm nhà - một trong những công việc hệ trọng của nhiều người, được linh mục đến làm phép nhà. Khi giáo dân ốm đau liệt giường, liệt chiếu, linh mục đến bên giường cho họ rước Mình Thánh Chúa. Lúc họ hấp hối qua đời, dù mắc bệnh truyền nhiễm, dù đêm hôm khuya khoắt, rét lạnh, linh mục vẫn đến ban cho họ “của ăn đàng”. Khi họ qua đời, linh mục làm lễ mồ, đưa họ ra tận “đất thánh”. Hằng ngày linh mục giảng đạo qua mỗi thánh lễ. Nếu họ đi lễ thường xuyên, là hằng ngày họ được tiếp xúc với linh mục. Có thể nói linh mục về phần đời, gần gũi thân thương với giáo dân như người ruột thịt. Vì vậy, tín hữu Công giáo rất quý mến linh mục của họ. Họ sẵn sàng xả thân cứu linh mục khi lâm nguy.
Khi gia đình có tin mừng, như làm mới nếp nhà, mua sắm gia dụng đắt tiền, họ đều có quà mừng linh mục. Thậm chí khi tát ao cá nhà, có con cá to họ mang biếu linh mục; khi làm thịt con lợn, họ biếu linh mục miếng thịt ngon nhất.
Nhiều công việc gia đình, việc riêng tư, tín hữu thường tìm đến linh mục và nhận được lời khuyên nhủ từ phía linh mục, và thường thì họ nghe theo lời khuyên nhủ của linh mục.
Một cuộc điều tra xã hội học của Viện Nghiên cứu Tôn giáo cho thấy có 17% số người được hỏi trả lời khi gia đình và bản thân có việc quan trọng, thì tìm đến linh mục để tâm tình và nhận lời khuyên nhủ.
Linh mục ốm đau, giáo dân thay phiên nhau chăm sóc. Linh mục qua đời, giáo dân xứ, họ đạo lo an táng. Ði thực tế ở một số nhà thờ xứ đạo, chúng tôi thấy trong khuôn viên nhiều nhà thờ an táng linh mục qua đời. Tín hữu muốn linh mục được gần gũi hằng ngày với mình.
Ðối với giám mục, niềm kính trọng được nhân lên gấp bội so với linh mục.
Với các nữ tu, dân gian cũng có những cách gọi trìu mến khác nhau ngoài từ “sơ” nặng về cách gọi quan phương. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, sơ được gọi là “mụ” hoặc “bà mụ”, nhà dòng được gọi là “nhà mụ”. Ở miền Trung và miền Nam, sơ được giáo dân gọi dì (dì là em mẹ) hoặc dì phước, vì các nữ tu thường làm những công việc từ thiện, y tế, xã hội, tức là làm phúc (phước).
Cuối thế kỷ XX, trên Nguyệt san Công giáo và Dân tộc có một số bài viết xoay quanh gọi là linh mục là gì? Cụ, Thầy Cả, Cha, hay Linh mục. Có một tác giả viết bài phê phán một linh mục, nhưng rất nhẹ nhàng. Số là linh mục nọ mặc thường phục đến xứ mà không ai biết, nên được gọi là anh. Thế là gặp phải sự khó chịu của linh mục mặc thường phục.
Ở địa phận Phát Diệm, khi chúng tôi về nghiên cứu ở một vài xứ đạo, gặp phải sự phàn nàn của một số giáo dân về tác phong khệnh khạng, xa rời tín hữu của một số linh mục còn rất trẻ, nên giáo dân gọi những vị linh mục trẻ này là cụ non. Tình trạng linh mục trẻ có những biểu hiện xa cách giáo dân với tác phong cha chú còn thấy gặp ở một số nơi.
Chúng tôi tán thành với tác giả Hồng Nhuệ, kết thúc bài viết “Linh mục được gọi là “CHA” từ lúc nào”, như sau: Nếu thực sự thời đại đã đổi thay, lòng người đã chuyển hướng. Nhưng cũng không thể không gọi người sinh đẻ ra mình về thân xác phần hèn là cha, cũng như không thể không gọi người săn sóc phần hồn mình là cha, hoặc không thể không gọi kẻ dạy dỗ mình, mở mang trí óc cho mình là thầy, thầy dạy chữ nghĩa khoa học, cũng như không thể không gọi người dạy dỗ mình biết đường theo đạo Chúa là thầy.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1. Theo tác giả Hồng Nhuệ: Cuối thế kỷ thứ XVII đã có hai cách gọi: Thầy: xưng hô giữa linh mục và tín hữu. Thầy cả: Chỉ linh mục
Thầy cả: Bishop, chỉ giám mục
Thế kỷ XVIII có những cách gọi:
- Linh mục được gọi là Sacêdotê (Tế trường), phatêrê (cha), thầy cả.
- Linh mục: Cụ, Ông cụ, Cụ chính.
- Giám mục: Ðức cụ, đức cụ Bê.
Thế kỷ XIX có:
- Vít vồ, Ðức thầy, Giám mục.
- Giám mục bắt đầu được gọi là Ðức cha (năm 1830)
- Linh mục ngoại quốc Pháp hay Tây Ban Nha là cố.
- Linh mục bản xứ là cụ. Ðấy là theo thủ bút văn khố Hội Truyền giáo nước ngoài của địa phận Paris (M.E.P).
Còn theo sách các Thư chung địa phận Hà Nội, Q. II, Kẻ Sở 1924 (tác giả chưa có QI).
Thế kỷ thứ XVII, có những cách gọi:
- Thầy cả: Linh mục
- Pê: Linh mục
- Cố: Linh mục nước ngoài
- Cố Parôcô: Linh mục (nước ngoài) làm tổng quản một giáo khu hay tổng đại diện.
- Ðức cụ: Giám mục
Thế kỷ XIX: có những cách gọi:
- Pê, các Pê, Pê chính, Thầy, Thầy cả, Thầy cả chính, Thầy cả tùy: Cụ, Cụ chính, Cụ tùy, Cố, Ðức thầy, Vít vồ, Ðức Cha, Giám mục.
Thế kỷ XX: có những cách gọi:
- Năm 1924, chữ cha được dùng để chỉ linh mục được công khai sử dụng.
Bình luận