1.
Văn tự (chữ viết) của nhân loại chủ yếu được xếp thành 2 loại: văn tự biểu âm và văn tự biểu ý.
* “Văn tự biểu âm” là hệ thống ký tự (character) dùng tạo âm chứ không tạo nghĩa, ghép nhiều ký tự lại thì mới tạo được nghĩa, thành chữ (word). Ký tự trong văn tự biểu âm còn được gọi là “chữ cái” (letter). Ví dụ: ký tự “m”, “a” tự thân mỗi ký tự này ghi âm, ghép lại với nhau đọc thành “ma”, chữ này có nghĩa... như ghost.
* “Văn tự biểu ý” là hệ thống ký tự (character) mà mỗi ký tự đều có tính chất tạo nghĩa. Ví dụ: thầy đồ viết 南, rồi thầy đọc (âm Việt - Hán) là “Nam”, trò theo đó mà đọc lặp lại; thầy viết 越 rồi đọc “Việt”, trò lặp lại. Mỗi chữ đọc mỗi khác (xưa chưa biết ngữ âm học là gì để phân ra phụ âm, nguyên âm rồi ghép lại mà tự đánh vần), trò cứ vậy học thuộc lòng. Nếu chẳng may quên cách đọc chữ 越 thì chịu chết, phải hỏi lại.
Ký tự biểu ý (character) đồng thời là chữ (word). Ký tự biểu âm đa phần không tạo nghĩa, phải ghép các ký tự lại để thành chữ (word).
* Chú thích thêm: Trước đây quen gọi là “chữ tượng thanh” (chữ biểu âm) và “chữ tượng hình” (chữ biểu ý). Nhưng, nói cho cùng, các ký tự như “a”, “b” (chữ Latin), “な” (chữ hiragana ở Nhựt Bổn), “글” (chữ Hangul ở Hàn Quốc), “吳” (chữ Hán), rồi ký tự عربية(chữ Ả Rập)..., thảy đều là “HÌNH” hết, có ký tự nào không là “hình” đâu!
Lối nghĩ chữ Hán “tượng hình” vì mô phỏng sự vật khách quan rồi tối giản, sơ đồ hóa, kỳ thực chỉ là một trong rất nhiều cách cấu tạo chữ Hán mà thôi, chẳng hạn gặp phải những khái niệm trừu tượng như “Tự Do” thì mô phỏng hình nào để ghi lại?
Do đó, sau này người ta dùng “biểu âm” và “biểu ý” (ký tự tạo nghĩa, tạo ý) để phân loại chữ viết.
![]() |
Hệ thống văn tự biểu âm chiếm đa số trong chữ viết của nhân loại hiện nay, trong đó biểu âm Latin là thông dụng nhứt |
2.
Văn tự (chữ viết) Latin, mà chữ Quốc ngữ của chúng ta nằm trong hệ thống chữ này, có nhiều nước sử dụng nhứt hiện nay. Có điều này cần chú ý: không chỉ có văn tự Latin là văn tự biểu âm, mà còn có nhiều văn tự khác nữa cũng đều BIỂU ÂM.
Mấy thứ chữ loằng ngoằng như chữ Ả Rập أبجدية عربية, chữ Ấn Độ हिन्दी, rồi chữ Cyrill (Nga và một số nước Đông Âu) язык, chữ Hangul 한 글 bên Hàn Quốc, chữ hiragana ひらがな và chữ katakana カタカナbên Nhựt Bổn..., thoạt nhìn tưởng là biểu ý (như chữ Hán), nhưng không phải. Tất cả đều là biểu âm, tức những bộ chữ vừa nêu họ đều có hệ thống ký tự dùng để ghi âm, rồi ráp lại, giống như cách chúng ta dùng chữ Quốc ngữ.
Còn chữ biểu ý trên thế giới? Ít lắm, chỉ có chữ Hán, chữ Ai Cập là đáng kể, nổi bật... Tức người Tàu, người Ai Cập họ học chữ nào thì biết đọc chữ đó, gặp chữ mới thì ngó mặt chữ cho vui chớ không thể đọc nếu không có người dạy cách phát âm.
3.
Hệ thống văn tự biểu âm sở dĩ phát triển, chiếm ưu thế hoàn toàn trên toàn cầu, là vì dựa trên nền tảng khoa học của ngành ngữ âm; từ đó dễ dàng cho người dân lãnh hội việc học chữ hơn hẳn.
Trong các văn tự biểu âm thì hệ chữ Latin chiếm ưu thế hạng nhứt. Bởi vì hệ chữ này cung cấp cho mỗi dân tộc mỗi cách thức phát triển. Chẳng hạn như khi các giáo sĩ người Bồ, người Ý đến Việt Nam, họ dựa trên nền tảng văn tự Latin để phân tích phụ âm, nguyên âm trong tiếng Việt. Độc đáo hơn nữa, họ nhận ra người Việt có thanh điệu rất phong phú, để từ đó mà sáng tạo ra các dấu “sắc”, “huyền”, “hỏi”, “ngã”, “nặng” (mà trong ngôn ngữ nhiều nước phương Tây không có).
Một số nước trước kia thuộc Liên bang Xô viết dùng hệ chữ Cyrill của người Nga. Sau khi tách khỏi và trở thành các quốc gia độc lập, Turkmenistan, Uzbekistan, Azerbaijan, rồi Kazakhstan đều chuyển sang mượn hệ chữ Latin để tạo văn tự thích hợp cho từng dân tộc của họ.
Người Việt ngàn đời trước kia chỉ có thể biết mỗi chữ biểu ý (chữ Hán). Thời may, biết được hệ chữ biểu âm mà đa phần nhân loại đều dùng.
Từ biểu ý chuyển sang biểu âm là BƯỚC TIẾN ĐỐI VỚI TIẾNG VIỆT.
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận