Ðại Kim tự tháp Giza từ lâu đã được xem là một huyền thoại đầy bí ẩn. Tuy nhiên, những cuộn giấy cói Biển Ðỏ đã mang đến manh mối về người xây dựng nên kỳ công kiến trúc này.
Nằm bên bờ Biển Đỏ thuộc Ai Cập, Wadi al-Jarf hiện nay là một nơi lặng lẽ, vắng bóng người qua lại. Nơi từng nhộn nhịp cách đây hơn 4.000 năm. Wadi al-Jarf lần đầu được phát hiện năm 1823 nhờ vào một người Anh tên John Gardner Wilkinson. Đến thập niên 1950, hai phi công mê khảo cổ học người Pháp là François Bissey và René Chabot-Morisseau đã tìm đến nơi đây. Nhưng cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 đã trì hoãn nỗ lực nghiên cứu thêm.
Phải đợi đến năm 2008, công trình khảo cổ tại đây mới được nối lại ở đây. Nhà Ai Cập học người Pháp Pierre Tallet dẫn đầu các nỗ lực khai quật giúp xác định, Wadi al-Jarf từng là cảng quan trọng vào khoảng 4.500 năm trước, vào triều đại của Pharaoh Khufu và liên quan đến công trình xây dựng Đại Kim tự tháp Giza cách đó khoảng 241km.
Tầm quan trọng lịch sử của Wadi al-Jarf được chứng thực năm 2013 khi 30 cuộn giấy cói Biển Đỏ có niên đại lâu đời nhất thế giới, được tìm thấy bên trong những hang động đá vôi do người xưa tạo nên. Số tài liệu này vô cùng quan trọng vì không những tiết lộ quá khứ huy hoàng xa xưa của Wadi al-Jarf, mà ghi lại nhật ký của một người đàn ông tên Merer từng tham gia vào dự án xây dựng Đại Kim tự tháp Gaza cho Pharaoh Khufu.
Cảng xây kim tự tháp
Wadi al-Jarf bao gồm một số khu vực khác nhau, trải dài suốt vài cây số từ sông Nile đến Biển Đỏ. Từ hướng sông Nile, khu vực đầu tiên, cách bờ biển khoảng 4,8km, có khoảng 30 hang lớn làm bằng đá vôi để chứa đồ. Những cuộn giấy cói đã được tìm thấy bên trong số hang này. Tiếp tục theo phía đông về hướng biển thêm khoảng 460m là một loạt các khu trại, và sau đó là một tòa nhà bằng đá lớn được chia thành 13 khu song song nhau. Các nhà khảo cổ học cho rằng nơi đây từng được dùng để ở. Cuối cùng, trên bờ biển là bến cảng với nhiều nhà ở và kho chứa.
Dựa vào đồ gốm sứ cùng chữ viết được tìm thấy tại khu vực, đội ngũ khảo cổ học có thể xác định được khu cảng phức hợp này có từ triều đại thứ tư của Ai Cập, hơn 4 thiên niên kỷ trước. Theo họ, cảng biển được khánh thành vào thời Pharaoh Sneferu và bị bỏ hoang vào cuối triều đại của con trai Khufu. Wadi al-Jarf hoạt động tấp nập trong một giai đoạn ngắn, và tập trung phục vụ cho việc xây lăng mộ của Pharaoh Khufu. Tên lăng mộ lúc đó là Akhet-Khufu, có nghĩa “Đường chân trời Khufu”.
Bên cạnh các cuốn giấy cói, nhiều phát hiện khảo cổ khác cũng tiết lộ tầm quan trọng của cảng biển. Những cấu trúc lớn, như cầu cảng bằng đá dài 182m, phản ánh sự đầu tư mạnh vào khu vực. Nhà Ai Cập học Tallet và đội ngũ của ông cũng tìm thấy khoảng 130 mỏ neo, cho thấy nơi này từng là khu cảng sầm uất. Từ cảng, tàu của pharaoh vượt Biển Đỏ đến bán đảo Sinai vốn dồi dào về đồng. Thời điểm đó, đồng là kim loại khó tìm nhất, và người Ai Cập cần đồng để cắt đá làm kim tự tháp. Khi quay về cảng, tàu được chất đầy đồng. Khi không ra biển, các con tàu được đưa vào những nhà chứa bằng đá vôi.
Những “kho báu” trong hang động
Sau khi cảng Wadi al-Jarf bị đóng cửa vào thời điểm Pharaoh Khufu qua đời, các ghi chép cho thấy một đội ngũ từ Giza đến nơi và phong tỏa các hang động bằng đá vôi. Trong quá trình này, các cuộn giấy cói ghi nhật ký của Merer bị mắc kẹt lại bên trong. Chúng vượt qua nắng, gió, cát sa mạc suốt 4.500 năm cho đến khi được nhóm của ông Tallet tìm thấy năm 2013. Các cuộn giấy cói đầu tiên được phát hiện ngày 24.3.2013 gần lối vào hang có tên G2. Phần thứ hai, cũng có số lượng nhiều nhất, được tìm thấy khoảng 10 ngày sau, bên trong hang G1. Những cuộn giấy cói bao gồm một số dạng tài liệu, nhưng phần của đốc công tên Merer thu hút sự chú ý nhiều nhất, vì ghi chép hoạt động hằng ngày của nhóm ông trong suốt 3 tháng tham gia dự án Đại Kim tự tháp Giza.
Đội của ông Merer gồm khoảng 200 người, đến từ khắp Ai Cập và chịu trách nhiệm thực hiện mọi nhiệm vụ liên quan đến công trình xây kim tự tháp. Trong số này, có thể kể đến việc vận chuyển các khối đá vôi để xây bậc cho kim tự tháp. Ông Merer ghi chép chi tiết cách thức đội của mình lấy đá vôi từ các khu mỏ ở Tura và chở bằng thuyền đến Giza. Mất khoảng 3 ngày để vận chuyển đá vôi từ mỏ đến Giza.

Theo một ghi chép, vào ngày thứ 25, đốc công Merer dành cả ngày với đội của mình để lấy đá ở nam Tura; qua đêm ở nam Tura. Ngày thứ 26, Merer cùng đội của mình lên thuyền ở nam Tura, thuyền chất đầy các khối đá, đến Akhet-Khufu [Đại Kim tự tháp]; qua đêm ở She-Khufu [khu vực tập trung đá trước khi đến Giza]. Ngày thứ 27, lên đường ở She-Khufu, giong buồm đến Akhet-Khufu, qua đêm tại Akhet-Khufu.
Thông qua nhật ký trên, những nhà Ai Cập học đã có được những thông tin chi tiết về giai đoạn cuối cùng của dự án xây dựng Đại Kim tự tháp Giza.
ĐỊNH NGUYỄN
Bình luận