Chuông báo tử: Khi tín hữu của một giáo họ (giáo khu) qua đời, vị trùm trực tiếp phụ trách giáo họ đó sẽ đến nhà thờ để kéo chuông báo tử (chuông sầu). Theo lệ xưa, nếu người mất là nam thì kéo bảy tiếng, nữ thì kéo chín tiếng. Lệ này có lẽ đã xuất phát từ quan niệm dân gian là người nam có ba hồn bảy vía, còn người nữ có ba hồn chín vía. Tuy vậy, số lượng tiếng chuông đã không còn thể hiện niềm tin ấy nữa, vì người Công giáo đều tin rằng con người chỉ có một linh hồn bất tử, sự phân biệt chỉ còn là lời công bố về giới tính của người quá cố. Trên hết thì tiếng chuông báo tử lưu giữ một nét văn hóa cộng đồng rất đáng trân trọng là mời gọi mọi người cùng hiệp thông cầu nguyện cho linh hồn mới lìa trần, thể hiện sự tương thân tương ái.
Thánh lễ đưa chân: Cũng với tinh thần tương thân tương ái đó, nhiều giáo xứ còn giữ lệ dâng thánh lễ gần nhất để cầu nguyện cho linh hồn tín hữu mới qua đời, gọi là Lễ Đưa Chân, thể hiện sự gắn kết của cộng đoàn giáo xứ.
Mộc dục và khâm liệm: Người mới qua đời sẽ được tắm bằng rượu trắng hoặc nước thơm (mộc dục). Sau đó, họ sẽ được thay quần áo đẹp, phủ thêm áo tang có in hình thánh giá (khâm liệm). Thông thường, linh mục sẽ đến cử hành nghi thức nhập quan trong một khung giờ đã hẹn trước với vị trùm họ, khi ông đến nhà thờ báo tin và kéo chuông báo tử. Nếu việc khâm liệm hoàn tất trước khung giờ ấy thì thi hài sẽ được đặt tạm trên một chiếc giường nhỏ, đầu hướng ra cửa để chờ.
Nhập quan: Lễ nhập quan trong Nghi thức An táng (Ordo Exsequiarum) do Vatican phát hành năm 1969 chỉ có xông hương và làm phép thi hài, nhưng trong bản dịch tiếng Việt thì có bổ sung thêm phần làm phép áo quan và làm phép khăn tang. Sự bổ sung này đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam chấp thuận trong Hội nghị thường niên kỳ I năm 2009, được Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật các Bí Tích phê chuẩn ngày 09.12.2013. Đây là sự thích nghi mục vụ nhằm hội nhập văn hóa, phản ánh vai trò quan trọng của áo quan và khăn tang trong tang lễ của người Việt, tạo ra một nghi thức giao thoa giữa đức tin và truyền thống dân tộc.
Nghi thức làm phép áo quan phản ánh tâm lý xem chiếc quan tài như ngôi nhà mới của thân xác, cần được gìn giữ khỏi sự quấy nhiễu của ma quỷ. Đồng thời, nghi thức này cũng phần nào đáp ứng niềm tin dân gian mà nhiều tín hữu còn lưu giữ là sự an nghỉ của người đã khuất có thể tác động trực tiếp đến họa - phúc của gia đình. Niềm tin dân gian ấy cũng chính là động lực của nghi thức phạt mộc trong tang lễ truyền thống, khi thầy phủ thủy dùng bùa chú hoặc mảnh ván khắc hình Bắc Đẩu thất tinh đặt vào trong quan tài để trấn áp ma quỷ, ngăn chúng quấy nhiễu giấc ngủ ngàn thu của người chết.
Theo “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính và “Đất lề quê thói” của Vũ Văn Khiếu thì tang lễ truyền thống không có việc làm phép khăn tang. Chỉ những gia đình có tiền mới mời thầy phù thủy về cúng tế trong lúc tang quyến đang làm lễ thành phục (mặc đồ tang), nhưng việc cúng tế ấy là cúng tế người đã khuất chứ không phải tang phục. Trong lúc cử hành nghi thức làm phép khăn tang, vị linh mục chủ tế thường nói về việc đeo tang là dấu chỉ của sự tiếc thương, thể hiện lòng hiếu thảo. Đồng thời, chiếc khăn tang cũng là lời nhắc về thân phận mỏng manh của con người và sự trông đợi vào cuộc sống đời sau. Những chia sẻ này cho thấy nghi thức làm phép khăn tang là một sáng tạo dựa trên việc tiếp nối truyền thống Việt Nam theo tinh thần Công giáo.
Như vậy, trong ba nghi thức thì làm phép thi hài là hoàn toàn theo lễ nghi Công giáo, làm phép áo quan là tiếp nối truyền thống Việt Nam theo đức tin Công giáo, còn làm phép khăn tang là sự sáng tạo của người Công giáo Việt Nam dựa trên văn hóa truyền thống và đức tin.
Sau các nghi thức trên thì thi hài được đặt vào linh cữu, bên dưới có lót trà hoặc thảo mộc, đầu hướng ra cửa, phía trên đậy nắp kính để người phúng viếng có thể đến nhìn mặt lần cuối. Theo ghi nhận của Nguyễn Khánh Diệp (năm 2017) thì một số tín hữu ở giáo phận Xuân Lộc đã lý giải việc đặt thi hài quay ra cửa là để người đã khuất có thể hướng mặt lên bàn thờ Thiên Chúa. Theo quan sát của chúng tôi, tục này không phải chỉ có ở đám tang Công giáo, nên dường như là mang một ý nghĩa khác. Theo Vũ Văn Khiếu thì việc đặt thi hài hướng ra cửa là để người đến phúng viếng vái lạy mặt chứ không phải chân người đã khuất. Nhưng nếu chỉ như vậy thì tại sao lúc di quan, người Việt từ xưa đến nay vẫn khiêng đầu quan tài đi trước chứ không để chân đi trước như lúc khiêng võng, khiêng cáng cho người sống? Phải chăng ở đây còn có một hàm nghĩa, ý tứ nào đó?
Tùy táng: Tùy táng là một tập tục có từ thời tiền sử và hiện diện trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Xuất phát từ quan niệm “trần sao thì âm vậy”, người ta chôn theo người chết các đồ vật, của cải, thậm chí cả người hầu hay thê thiếp, với niềm tin rằng sang thế giới bên kia họ sẽ có cái để dùng, có người hầu hạ. Ở Trung Quốc, tập tục tùy táng người sống dần bị loại bỏ trước sự phản đối mạnh mẽ của các nhà Nho. Đến thời Đường Huyền Tông, triều đình ban sắc dụ cho phép dùng tiền giấy thay cho tiền thật trong việc cúng tế, cầu siêu… Từ đó mới hình thành tục đốt vàng mã, ảnh hưởng đến nước ta.
Người Công giáo Việt Nam không có tục đốt vàng mã vì giáo lý của Hội Thánh khẳng định người đã khuất không thể mang theo của cải vật chất, nhưng xuất phát từ tình cảm dành cho người thân, vẫn có gia đình Công giáo đặt vào quan tài một vài món đồ quen thuộc mà người quá cố thường dùng khi còn sống, nhất là quần áo và tràng hạt. Việc làm này nhìn chung là không hề phương hại đến đức tin, vì đều xuất phát từ tình cảm gia đình. Tục tùy táng lại có thể kèm theo một niềm tin dân gian mang màu sắc mê tín dị đoan là dùng đồ của người chết thì sẽ bị họ hiện hồn về đòi lại hoặc gây họa, nên gởi đi luôn vì để lại cũng không ai dám dùng. Niềm tin dân gian này hoàn toàn mâu thuẫn với đức tin. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, điều 1022 viết: “Mỗi người, ngay sau khi chết, lãnh nhận nơi linh hồn bất tử của mình sự trả công muôn đời trong cuộc phán xét riêng, cuộc phán xét đó quy chiếu đời sống họ với Đức Kitô để hoặc họ phải trải qua thanh luyện, hoặc họ lập tức được vào hưởng vinh phúc trên trời, hoặc họ lập tức bị luận phạt muôn đời”. Điều đó có nghĩa là không có chuyện linh hồn người chết còn lang thang nơi trần thế hay trở về quấy phá người sống.
KỲ PHONG
Bình luận