Khi được bầu chọn làm Giáo hoàng, Đức Gioan XXIII được gọi là giáo hoàng chuyển tiếp. Lúc ngài quyết định triệu tập một Công đồng, toàn thể Giáo hội ngỡ ngàng. Ý hướng này không hề nhắm đến những lý do thần học. Ngài chủ trương nó như một Công đồng mục vụ chứ không có tính tín điều. Ý nguyện của ngài thật rõ ràng: Giáo hội không cần thiết lập một thể chế giáo điều mà là đặt lại đúng vị trí của Giáo hội trong thế giới. Giáo hội không cần xác định lại tính thần linh của sứ điệp của mình nhưng cần xem lại cách thức truyền đạt nó. Giáo hội không lo phải xem mình có lý, nhưng lo làm sao để lý lẽ mình đưa ra được đón nhận. Giáo hội không còn muốn trị vì nhưng muốn phục vụ.
![]() |
Các tu sĩ đã mạnh mẽ dấn thân nơi cộng đồng phục vụ |
Và, Công đồng Vatican II đã đến với Giáo hội và thế giới như một luồng gió tươi mát thanh khiết. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đề cao con người khi nói trong diễn văn bế mạc Công đồng, ngày 8.12.1965: “Chúng ta có thể quả quyết rằng chúng ta phải biết con người, nếu muốn biết Thiên Chúa”. Con người có bản tính xã hội, có cùng chung một mục đích. Vì vậy con người cần đến xã hội để phát triển. Con người phải xây dựng xã hội và tôn trọng lợi ích chung nhằm cổ võ quyền lợi cá nhân. Xã hội phải tôn trọng nhân vị mọi người và tạo mọi điều kiện tốt để mỗi người chu toàn sứ mệnh của mình.
Trong Hiến chế Tín Lý, Giáo hội nhìn vào chính mình để mong canh tân đúng với dung nhan của Chúa Kitô. Đời sống tu trì là một phần quan trọng của đời sống Giáo hội, vì vậy cần đổi mới, mặc dù đời tu trì có những giá trị cốt yếu không thay đổi nhưng có những phương diện cần thay đổi theo thời đại. Công đồng chủ trương đặt con người vào trọng tâm và mục đích của sinh hoạt kinh tế, xã hội. Từ đó rút ra các hệ luận cần thiết cho việc dấn thân xã hội của người tu sĩ. Tu sĩ phải phục vụ việc loan báo Tin Mừng ở những nơi người ta chưa biết Đức Kitô; tạo lập quan hệ với những người không có tín ngưỡng, với những người theo tôn giáo khác hay những người thuộc các cộng đồng Kitô giáo; giúp phát triển con người trong các lĩnh vực giáo dục, y tế và xã hội… Người tu sĩ phải suy tư vấn đề của thời đại rằng Giáo hội toàn cầu và Giáo hội địa phương đang kêu gọi chúng ta làm gì? Các tu sĩ có thao thức đáp ứng các nhu cầu ưu tiên không? Những miền nào đang bị bỏ rơi và những thiểu số nào chưa được tiếp xúc với giáo dục văn hóa? Và như vậy, tu sĩ phải làm một cuộc canh tân chính mình để có sức mạnh lên đường.Công đồng đề nghị và khuyến khích Giáo hội địa phương tháp nhập vào các nền văn hóa của chính dân tộc mình hoặc những nền văn hóa khác. Muốn được như vậy, mọi thành phần trong Giáo hội nói chung và tu sĩ nói riêng cần biết ngôn ngữ, các điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa bản địa. Đồng thời lắng nghe và đối thoại để xây dựng, chọn một lối sống đơn giản, trở nên chứng tá trong cộng đồng. Những tu sĩ cũng hoạt động cho sự phát triển và giải phóng toàn diện con người bằng cách sống các giá trị Phúc Âm về công lý, hòa bình. Đó là những đòi hỏi của công cuộc Phúc Âm hóa.
![]() |
Đáp lại nhu cầu xã hội - ảnh: các tu sĩ trẻ lên đường chống dịch Covid-19 tại bệnh viện dã chiến |
60 năm nhìn lại, Công đồng Vatican II đã ảnh hưởng đến các tu sĩ từ trong nhận thức đến lối sinh hoạt, mục vụ. Các tu sĩ nam nữ được đào tạo chuyên môn kỹ lưỡng hơn, nhờ đó họ có thể phục vụ trong nhiều ngành nghề khác nhau, để sinh sống và dấn thân vào đời. Nhiều dòng nữ đã thích nghi tu phục cho giản dị và thích hợp với địa phương. Đời tu được gần gũi với người dân hơn. Nếp sống mang tính “hội nhập” môi trường. Nhiều lớp thần học, giáo lý được tổ chức giúp người tu sĩ nâng cao hiểu biết. Nói chung, người tu sĩ trưởng thành hơn so với trước đó, vốn nặng tính cách “đoàn”, “nhóm”, đôi khi còn làm giảm sút tính trách nhiệm cá nhân. Sự tự do nội tâm chưa được đề cao do có thể chưa được trưởng thành, có khi lại vượt mức cho phép, muốn vào đời dấn thân lại bị “đời hóa” khi nào không hay, muốn cổ võ bản thân mà không thấy đó chỉ là phương tiện.
Dưới ánh sáng Công đồng và hoàn cảnh xã hội, các tu sĩ hăng hái ra đi dấn thân. Có dòng ngay từ năm 1980 đã mở “lớp học tình thương”. Hoạt động này mang lại ích lợi cho xã hội và lan tỏa đến các dòng tu khác. Nam nữ tu sĩ dấn thân mạnh trong lĩnh vực giáo dục, y tế, bác ái. Có những phòng khám từ thiện ra đời, hiện diện cần thiết vì phục vụ người dân nghèo, không những người bệnh tại TPHCM, mà còn cho các vùng xa, vùng sâu. Rồi những mái ấm do các tu sĩ lập nên nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật hay săn sóc người nhiễm HIV, người lỡ lầm. Trong lĩnh vực giáo dục và y tế, cũng như xã hội, người tu luôn có mặt, hiện diện với bàn tay, khối óc và con tim, đem đến cho đời bao ủi an và niềm hy vọng. Chuyên môn cũng như tấm lòng của họ dần hồi thu hút sự quý trọng và lòng thiện cảm của các đồng nghiệp, mà trước đây họ nhìn tu sĩ với cặp mắt nghi ngờ. Những nữ tu phục vụ trong các xí nghiệp hoặc trong các công tác của địa phương, các nữ tu sống tại TPHCM có dịp giao thiệp với chính quyền cách gần gũi hơn. Theo lời yêu cầu và khuyến khích của các vị chủ chăn, các nữ tu với ý chí ngay lành, muốn hợp tác với địa phương. Họ tham gia các khóa bồi dưỡng, hay tu nghiệp mà chính quyền tổ chức đều đặn. Ngoài những sinh hoạt bình thường của một đời sống cộng đoàn tu trì, các chị còn cố gắng có mặt trong các buổi hội họp mà phường khóm tổ chức. Cuộc sống hằng ngày khó khăn và đôi khi căng thẳng, đòi hỏi người nữ tu phải có được một tinh thần mạnh mẽ để đứng vững nhưng vì lý tưởng đời tu, các tu sĩ chấp nhận sống như mọi người, cho mọi người, làm việc với mọi người.
Công đồng Vatican II đã đi vào lịch sử, để lại nhiều âm vang sâu đậm trong lòng Giáo hội hoàn vũ. Một thoáng nhìn lại đời tu 60 năm sau Công đồng cũng là dịp để các tu sĩ chiêm nghiệm về ý nghĩa hành trình đời tu. Trước một xã hội hiện đại, biến đổi nhanh chóng như hôm nay, tu sĩ cần tự hỏi tính ngôn sứ mà Công đồng mời gọi và các vị Giáo hoàng không ngừng nhắc nhở có là phương châm cho người tu sĩ không? Đời tu có thật là cõi phúc làm cho người khác muốn nối gót theo chân Con Thiên Chúa hay là cơ hội giúp phát triển bản thân, phục vụ cho một thứ danh vọng nào? Ý thức thuộc về Chúa và ý chí phục vụ Giáo hội sẽ là câu trả lời cho các tu sĩ nam nữ. Đặc biệt, đối với tu sĩ trẻ, vì thế hệ đi trước đã hết mình, có khi trong gian nan với nhiều giới hạn, đã cố gắng chu toàn sứ vụ được trao phó.
Nữ tu Elizabeth Trần Thị Quỳnh Giao, FMM
Bình luận