Lặng lẽ nơi cực tây vùng cù lao Giêng, nhà thờ Ðức Bà Cồn Trên (xã Cù Lao Giêng, An Giang) là chốn lui tới của bao người mang lòng sùng kính Ðức Mẹ. Nơi đây mang nhiều câu chuyện được người ta truyền tai nhau về phép lạ Ðức Bà, những chuyển dời, đổi thay của ngôi nhà nguyện nhỏ, và bức tượng Ðức Mẹ đứng đó như vòng tay ôm lấy bao phận đời, chở chuyên những mong cầu mà đoàn con gởi gắm, vỗ về, bất kể ngày đêm…
Rủ nhau đi viếng Đức Bà
Về bức tượng Đức Mẹ, có nhiều giai thoại được truyền miệng lại, điển hình nhất là chuyện bức tượng được cha Tôma Nguyễn Văn Mân (1944-2022) trục vớt từ dưới con sông trước nhà thờ. Để giáo dân có thể đến chiêm bái và cầu nguyện, vị linh mục đã cho xây một bệ thờ. Từ đó, những câu chuyện về phép lạ và ơn lành của Đức Mẹ bắt đầu lan truyền rộng rãi. Tuy nhiên, khi tìm về họ đạo Cồn Trên, gặp một số giáo dân và lục tìm lại những ghi chép của cha Mân, mới thật sự tường minh về lai lịch của bức tượng đặc biệt này.
Bức tượng Đức Mẹ đặt ở đài bây giờ ngày trước nằm ở nhà thờ Chợ Thủ, phía bên kia sông. Khoảng những năm 70, cha Mân lúc đó còn là thầy giúp họ đạo này, cứ chiều chiều lại đốt đèn đưa ra đài Đức Mẹ, tới sáng thì mang vô, lau chùi, châm lại dầu rồi cất đi, đều đặn từng đêm như vậy.
Sau khi chịu chức năm 1977, cha Tôma được bài sai về họ đạo Cồn Trên, sau này cha có viết trong hồi ký như sau: “Đi tu, Bề trên sai đi đâu mình đi đó là chuyện bình thường, nhưng việc tôi đêm đêm dầu đèn cho Đức Mẹ đã trở nên “nặng tình”. Vì thế, thu xếp đồ đạc xong, tôi ra trước đài, nước mắt lưng tròng nhìn lên tượng Đức Mẹ, tôi nghẹn ngào: Thôi, Mẹ ở lại con đi. Từ nay con không được đốt đèn hằng đêm cho Mẹ nữa. Xin Mẹ chúc lành cho con”.
Rời Chợ Thủ, cha Mân về nhậm xứ Cồn Trên, ngài cũng chính là cha sở tiên khởi của họ đạo. Dầu bận rộn với những công việc mục vụ nơi xứ mới, nhưng nỗi nhớ Mẹ đêm đêm luôn làm vị linh mục khắc khoải. Phải đến 18 năm sau, khi nghe tin họ đạo Chợ Thủ thay tượng Đức Mẹ mới, bức tượng cũ năm nào được đưa vô để ở một góc phòng học giáo lý, vậy là cha mau mắn đi đò sang Chợ Thủ, ngỏ ý xin cha sở lúc bấy giờ là cha Phêrô Nguyễn Đức Thiêm cho ngài được chuộc tượng Mẹ về. Trong hồi ký cũng có đoạn cha viết: “Cha Phêrô dẫn tôi đến chỗ bức tượng, nhìn thấy tượng Đức Mẹ, tôi không cầm lòng được! Tôi thỉnh mời: Thôi, Mẹ về Cồn Trên con phụng dưỡng Mẹ. Mẹ về Cồn Trên con sẽ xây cho Mẹ một cái đài”.
Mấy ngày sau, cha nhờ người chở bức tượng về trên một chiếc xuồng giăng câu nghèo nàn. Khi xuồng cập bến, dân chúng lương - giáo, già trẻ, lớn nhỏ đều ùa tới xem. Một đám rước tự phát hình thành, họ hân hoan khiêng bức tượng Đức Mẹ về nhà xứ. Trên đường đi, người ta hô vang dậy: “Đây là Mẹ chung, Mẹ chung của chúng ta. Mẹ chung!”. Những tiếng hò reo ấy làm vị linh mục nghẹn ngào, mắt chực trào nước, chỉ biết bậm môi, gật đầu đón nhận trong cảm thức sâu xa, rằng Đức Bà chính là Mẹ chung của mọi người.
Khi về tới nhà xứ, bức tượng được đặt xuống giữa sân. Giáo dân quây thành vòng trong vòng ngoài, xoa tay lên tượng, trầm trồ khen ngợi. Người ta tò mò hỏi có phải tượng Mẹ Fatima, hay Mẹ Lộ Đức…, cha đáp từ tốn: “Đây là tượng Đức Bà Cồn Trên”, và từ đó, tên gọi trìu mến “Đức Bà Cồn Trên” được lưu truyền mãi.
Trước khi ai nấy trở về, cả cộng đoàn quây quần bên tượng Mẹ, cùng nhau dâng lời cầu nguyện sốt sắng. Hôm ấy là ngày 10 tháng 10 năm Ất Hợi (1995), một cột mốc đặc biệt, mở ra truyền thống viếng Đức Bà được duy trì cho tới hôm nay: Hằng ngày vào buổi tối; Hằng tuần vào chiều thứ Bảy; Hằng tháng vào ngày mồng 10 âm lịch; Và hằng năm, vào ngày 10 tháng 10 Âm lịch - trở thành Đại lễ Viếng Đức Bà.
Tới ngày nay, bà con quanh vùng vẫn ghi nhớ câu vè quen thuộc: Rủ nhau đi viếng Đức Bà/ Cả lương lẫn giáo chúng ta đi cùng/ Đức Bà nhân hậu khoan dung/ Đức Bà là Mẹ của chung mọi người.
Từ ngày đặt tương Mẹ tại Cồn Trên, bà con khắp nơi tới viếng ngày càng đông, đặc biệt là ngày 10 tháng 10 Âm lịch. Không thiếu những câu chuyện về phép lạ Đức Bà, do chính những người đến cầu nguyện và được ơn cách lạ lùng kể lại. Lòng sùng kính Đức Bà nơi xứ cù lao heo hút này ngày càng được vun bồi, dần trở thành bến đỗ cho những ai nao núng, khổ đau, cần được Mẹ cầu bầu, nâng đỡ, chở che…

Xóm nhỏ Cồn Trên
Lịch sử ghi nhận, sự hiện diện của xóm đạo Cồn Trên trên mảnh đất Cù lao Giêng đã hơn một thế kỷ. Vào những năm đầu thế kỷ XX, nơi đây chỉ mới lác đác vài gia đình Công giáo sinh sống xen kẽ cùng những hộ lương dân trên vùng đất khi ấy còn được gọi là Cồn Bà Sang. Về sau, cồn đất nhỏ giữa dòng sông Tiền dần được gọi bằng cái tên thân thuộc là Cồn Trên, như để đánh dấu vị trí cao hơn so với những doi đất xung quanh.
Ngôi nhà nguyện đầu tiên của giáo dân rất đơn sơ, chỉ dựng tạm bằng lá cây, tre nứa và gỗ tạp. Dẫu vậy, với những người tín hữu ít ỏi, đó là nơi thiêng liêng để cùng quy tụ đọc kinh, dâng lễ giữa vùng bốn bề sông nước hiu quạnh. Qua thời gian, ngôi nhà thờ lá xuống cấp dần, thêm vào đó, sự xoáy mòn dần dà của dòng chảy sông Tiền khiến phần đất đầu cồn bị sạt lở, buộc các gia đình giáo dân phải dời dần nhà cửa vào sâu bên trong, tất nhiên nhà thờ cũng phải di dời theo.
Năm 1978, một ngôi thánh đường mới được xây dựng, vững chãi hơn trước. Thế nhưng, không lâu sau, tình trạng sạt lở tiếp tục đe dọa, khiến nền móng công trình này cũng dần bị xâm lấn. Đến năm 2007, bà con giáo dân Cồn Trên đã tiếp tục dựng lên một ngôi nhà thờ khang trang, chắc chắn, nằm trên nền đất an toàn hơn xưa, đây cũng là ngôi thánh đường đang hiện diện ngày nay. Ngôi nhà thờ cũ vẫn được giữ lại, trở thành nơi sinh hoạt, hội họp và tổ chức các lớp giáo lý, sinh hoạt thiếu nhi trong xứ đạo.
Dù giáo dân không đông, chưa tới 200 nhân danh, nhưng nhịp sống đạo nơi đây vẫn được duy trì. Mỗi ngày, giáo xứ đón tiếp vài chục lượt khách hành hương đến viếng cầu nguyện bên Đức Mẹ. Những dịp lễ lớn hằng tháng hay các ngày kính trọng thể, dòng người tìm đến đông hơn, có khi lên đến ba, bốn, thậm chí năm trăm người, phủ kín cả khuôn viên nhà thờ.
Phần lớn bà con trên cồn hiện nay sống bằng nghề làm thuê, đan giỏ hoặc buôn bán nhỏ, chủ yếu là người già và trẻ em. Những người trong độ tuổi lao động thường phải rời quê đi học xa hoặc làm việc tại các khu công nghiệp ở Bình Dương, Đồng Nai. Chính vì vậy, sinh hoạt của xứ đạo cũng mang dáng dấp chậm rãi và hiền hòa như nhịp sống nơi đây. Ông Hồ Văn Danh, giáo dân gắn bó lâu năm với họ đạo nói trong an nhiên: “Ở đây giáo dân sống rải rác, sinh hoạt cũng không nhộn nhịp như ở những xứ đạo lớn. Nhưng bà con mình vẫn giữ được nếp đạo đức bình dân từ xưa tới giờ, sáng sớm nghe chuông thì đi lễ, tối tối lại quy tụ đọc kinh, lần chuỗi, xin Mẹ nâng đỡ, phù hộ cho gia đình bình an”.
Anh Thư
Bình luận