I. QUA 500 NĂM LOAN BÁO TIN MỪNG Ở VIỆT NAM
Năm 2033 sẽ là năm Giáo hội Công giáo Việt Nam kỷ niệm 500 năm Tin Mừng được loan báo trên quê hương. Để chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này, nhiều nơi trên khắp đất nước đang quyết tâm đẩy mạnh việc truyền giáo.
Mọi thành phần trong Giáo hội đang quyết tâm tăng số lượng Công giáo Việt Nam từ 7% lên 10% trong giai đoạn 2023-2033. Đây là một ước nguyện hết sức cao quý và rất đáng khen ngợi. Nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ lập ra kế hoạch rõ ràng và chi tiết như thế nào để đạt được mục tiêu này, thay vì chỉ là một khẩu hiệu hình thức như đã từng xảy ra nhiều lần trong quá khứ?
II. SỰ PHÁT TRIỂN ỔN ĐỊNH CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN
Nếu so sánh số liệu của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong các thời kỳ lịch sử từ năm 1615 đến 2023, sẽ thấy có những thời kỳ truyền giáo rất thành công, nhưng cũng có thời kỳ suy thoái:
- Chỉ trong 50 năm đầu 1615-1665, các nhà truyền giáo Dòng Tên với các thầy giảng Việt Nam đã rửa tội cho khoảng 100.000 người ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Số tín hữu đã tăng lên đến vài trăm ngàn người cho đến đầu thế kỷ XIX.
- Trong khoảng năm 1659 - 1802, Giáo hội Việt Nam có 3 giáo phận với 320.000 tín hữu với 14 thừa sai, 121 linh mục.
- Vào cuối thời kỳ thử thách từ năm 1802-1886, Giáo hội Việt Nam có 9 giáo phận với 600.000 tín hữu, chiếm khoảng 8% dân số, sau khi đạt đến tỷ lệ gần 12% dân số và bị sát hại khoảng 100.000 người trong khoảng 45 năm từ 1840-1885.
- Từ năm 1886-1960, Giáo hội Việt Nam phát triển mạnh rồi có 3 giáo tỉnh với 25 giáo phận và 2.151.370 tín hữu, chiếm khoảng hơn 7,5% dân số, với hơn 1.800 linh mục triều, dòng và thừa sai, gần 6.000 tu sĩ nam nữ.
- Từ năm 1960 - 2023, Giáo hội Việt Nam có 27 giáo phận. Năm 2023 số tín hữu có khoảng hơn 7 triệu người chiếm 7% dân số, với hơn 5.000 linh mục, 5.000 chủng sinh, 40.000 tu sĩ nam nữ và gần hơn 500.000 đoàn viên các hội đoàn Công giáo Tiến hành. Số tín hữu tân tòng mỗi năm khoảng từ 30.000 đến 40.000 người.
III. NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ CƠ HỘI
Công việc truyền giáo ở Việt Nam dưới ánh sáng của Tông huấn Loan Báo Tin Mừng và Tông huấn Giáo hội tại Á Châu được thể hiện dưới những góc độ:
1. Dưới ánh sáng của Tông huấn Loan Báo Tin Mừng (ĐGH Phaolô VI, 08.12.1975)
Cuối những năm 1970 là thời điểm mà Giáo hội Công giáo Việt Nam đối diện nhiều khó khăn về đời sống tôn giáo. Các giám mục nỗ lực củng cố đức tin của dân Chúa và hướng dẫn họ sống đức tin và xây dựng đất nước. Đây là một cơ hội cụ thể của việc loan báo Tin Mừng. Tất cả các yếu tố này đã giúp tạo nền tảng vững cho việc truyền giáo trong những thập niên tiếp theo.
Tông huấn Loan Báo Tin Mừng của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban hành vào đúng thời điểm cho Giáo hội Việt Nam, vài tháng ngay sau cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Lần đầu tiên, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) của một nước Việt Nam mới thống nhất đã họp tại thủ đô Hà Nội. Sau kỳ họp, HĐGMVN đã công bố Thư Chung ngày 1 tháng 5, 1980, khẳng định sứ mạng của Giáo hội Việt Nam: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ lợi ích của đồng bào”. Bức thư xác định hai mục tiêu:
* Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Thư viết: “Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà Nước, và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc”. Lý do các giám mục đề cập trước nhất nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước, vì chính quyền lúc đó còn rất mới và phải đối phó với nhiều vấn đề.
* Xây dựng trong Giáo hội một lối sống và lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc. Thư viết: “Chúng tôi muốn thực hiện điều Công đồng Vatican II đã tuyên bố: Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư tưởng của loài người hoặc trong lễ nghi và văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Hội Thánh không nhằm tiêu diệt, nhưng làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người (GH 17,1). Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu Thánh Kinh và Thần học để nắm vững những điều cốt yếu của đức tin, đàng khác, phải đào sâu nếp sống của từng dân tộc trong nước, để khám phá ra những giá trị riêng của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, vận dụng những cái hay trong một kho tàng văn hóa và xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc đang cùng chung sống trên quê hương và trong cộng đồng Hội Thánh này”.
2. Dưới ánh sáng của Tông huấn Giáo hội tại Á châu (ĐGH Gioan Phaolô II, 06.11.1999)
Theo sau Tông huấn Loan Báo Tin Mừng của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vào đêm trước thiên niên kỷ mới, đã trao cho Giáo hội hoàn vũ, và đặc biệt cho Giáo hội Á châu, quà tặng quý giá trong Tông huấn Giáo hội Tại Á châu, món quà này đem lại nhiều lợi ích cho Giáo hội Việt Nam về đời sống đức tin, nhất là công việc loan báo Tin Mừng.
Thực tế, Giáo hội Việt Nam và công cuộc truyền giáo đối diện với khó khăn và thử thách nhiều mặt, cả bên ngoài và bên trong, nhưng những điều đó không làm những nhà truyền giáo chùn bước mà luôn dựa vào ơn Chúa và sự hướng dẫn của Thánh Thần, luôn nhìn nhận hoàn cảnh khó khăn đó là cơ hội phát triển.
3. Những đặc điểm của công cuộc truyền giáo tại Việt Nam: Tái truyền giáo và hội nhập văn hóa
Vì những lý do lịch sử, xã hội và chính trị, bối cảnh truyền giáo ở Việt Nam có điểm khác biệt mang tính vùng miền như sau:
- Đối với Công giáo miền Bắc, do những lý do khách quan, đời sống đức tin của người Công giáo miền Bắc suy yếu nghiêm trọng trong một thời gian dài trước đây, trong khi những người trẻ thì thậm chí không biết đức tin là gì. Do đó, tái truyền giáo là cần thiết.
- Đối với Công giáo miền Nam, sau năm 1975, người Công giáo miền Nam gặp những khó khăn nhất định. Vì thế, sự khôn ngoan cần thiết cho việc hội nhập và củng cố đức tin, với việc nâng cao hệ thống giáo dục đức tin.
- Đối với Công giáo ở những vùng cao, đặc biệt với dân tộc thiểu số và ít người, vì sống ở những vùng sâu vùng xa và dân số ít ỏi, thường không có linh mục tại chỗ, không có cộng đoàn giáo xứ. Do đó, rất cần để tái lập những giáo điểm, và nếu có thể, gởi đến các giáo lý viên, hoặc nếu được là các linh mục để nâng đỡ họ.
- Trên bình diện chung, cần nâng cao đời sống đức tin trong mọi gia đình và giáo xứ, đào tạo giáo lý viên và ơn gọi linh mục tu sĩ.
4. Những dấu hiệu tích cực từ cuộc đối thoại và hợp tác giữa Giáo hội và Nhà nước
- Năm 2011, đã có sự hiện diện của vị Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam.
- Năm 2015, thành lập Học viện Công giáo Việt Nam.
- Ngày 27.7.2023, Việt Nam và Vatican tuyên bố đạt được thỏa thuận để có vị Đại diện Tòa Thánh thường trú tại Việt Nam.
Những điểm nổi bật này và nhiều cải thiện khác trong tương quan giữa Giáo hội Công giáo và Nhà nước Việt Nam, là kết quả của sự nỗ lực và tin tưởng dài lâu giữa đôi bên. Những điều này giúp cho người tín hữu Việt Nam an tâm hơn để sống đức tin trong sự phụng sự Thiên Chúa và phục vụ đất nước.
5. Những vấn đề khác mà Giáo hội Công giáo Việt Nam hôm nay cần lưu tâm
Trong một thế giới toàn cầu hóa mà chúng ta đang sống hôm nay, điều nào tác động tới các quốc gia khác và thế giới thì cũng ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội và Giáo hội Việt Nam. Trong đó, Giáo hội Công giáo Việt Nam đang phải đối mặt với những thách đố trong thực tế tôn giáo và xã hội, cách riêng với giới trẻ, như đã được đề cập trong Tông huấn Giáo hội tại Á châu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đó là sự tục hóa, hiện đại hóa, thái độ coi nhẹ đạo đức, thiếu tôn trọng sự thánh thiêng, xa lạ với Giáo hội, ham mê tiền bạc, dục vọng và thế gian… Khi đối diện với những điều này, HĐGMVN không ngừng kêu gọi các tín hữu hoán cải trở về, hơn thế nữa là mạnh dạn làm chứng cho Phúc Âm qua đời sống cá nhân, niềm tự hào là con cháu các thánh tử đạo.
Linh mục Đaminh Ngô Quang Tuyên
Bình luận