Qua lại Ðất Thánh dành cho các linh mục tu sĩ nằm gần nhà thờ Chí Hòa nhiều lần, và cũng không ít bận ghé vào thăm viếng, nhưng dường như, có một sự thúc đẩy vô hình nào đó nên mỗi khi ra về, trong tôi luôn gợi lên những nghĩ suy với bao nhiêu là câu hỏi. Có lần, tôi xin được bảng liệt kê tên họ của các thầy, các cha đang nằm trong nghĩa trang, rồi đem về bồi hồi tra cứu, tìm lục, đối chiếu… Thật bất ngờ, có biết bao điều thú vị về những tiền nhân đang gởi hình hài nơi đây để dần hóa thành tro bụi. Tháng 11, xin được nhắc qua vài gạch đầu dòng, vẽ lại sơ nét một ít bức chân dung, để hậu thế chúng ta ít nhiều biết qua những cống hiến, những dòng tư tưởng, sự tài hoa của các mục tử một thời.
![]() |
Căn cứ theo các thông tin được khắc trên bia thì những mộ lâu nhất trong nghĩa trang Chí Hòa có từ năm 1872 (sư huynh Aimare); đến sau năm 1985 thì không có thêm mộ mới nào. Hiện ở Đất Thánh có tất cả 224 ngôi mộ, gồm 173 mộ của các linh mục và 51 mộ của các sư huynh Lasan. Nếu miêu tả toàn bộ khuôn viên cho những ai chưa có dịp đến có thể hình dung thì chỉ mất vài dòng, vì mảnh đất khá vuông vắn, với một con đường thẳng tắp dẫn từ cổng đến bàn thờ chính; nhưng để ghi hết những công trạng, chuyển tải hết tiểu sử và những thành quả của những người đang nằm dưới mộ sâu để lại cho đời, thì chắc vài quyển sách chưa viết xong.
![]() |
Tất cả mộ đều được sơn trắng và khá ngay hàng thẳng lối |
Đi từ ngoài vào, ấn tượng đầu tiên ập vào mắt chúng tôi là hơn 200 ngôi mộ được sắp đặt theo những hàng lối đều ở cả các hàng ngang lẫn hàng dọc, xen lẫn trong những khóm hoa. Có một số mộ bên trên có các pho tượng tạc hình những thiên thần đang mỉm cười. Không gian ở đây có điểm chung là mộ hay tượng đều được sơn màu trắng, kiểu dáng mộ thì phần nhiều giống nhau. Khu vực cao là phần mộ của các linh mục, thấp hơn một chút là của các thầy Lasan. Phần mộ của các thầy Lasan quây quần thành một cụm và có một nhà mồ nhỏ, bên trong đặt tượng Đức Mẹ Sầu Bi khá lớn. Đây là nơi an táng các sư huynh đến phục vụ tại Việt Nam cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nổi bật lên là một tấm bảng tưởng niệm mấy thầy chết trên vùng biển miền Trung do đắm tàu ngày 4.12.1924, vị lớn tuổi nhất là 58 và vị trẻ tuổi nhất mới 19... Đặc biệt, ở nghĩa trang này chỉ có một ngôi mộ của giám mục. Đó là mộ Đức cha Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm, nằm riêng lẻ ngay cổng chính đi vô. Ngôi mộ bằng đá hoa cương đen, kiểu dáng đơn giản, có hai thiên thần hai bên, nghe nói như vậy là đã được tu sửa lại, mộ ban đầu còn đơn sơ hơn. Đức cha mất năm 1976 và giữ trọng trách Giám mục Phụ tá TGP Sài Gòn ngày xưa trong 10 năm.
Bước nhẹ trong nghĩa trang vào một buổi chiều của tháng Các Đẳng, trí tò mò đã đưa tôi ngắm nhìn lần lượt những tên tuổi trên mộ bia, với thắc mắc đây là linh mục nào? Mình có biết không? Thật không khỏi ngạc nhiên khi nhiều vị mà tôi đã từng nghe danh, biết tiếng lâu nay, giờ mới có dịp chiêm ngắm ngôi nhà cuối cùng của họ nơi trần thế. Vì các linh mục đang an nghỉ trong Đất Thánh Chí Hòa đều thuộc địa phận Tây Đàng Trong (theo địa giới mục vụ Công giáo xưa là gồm cả 6 tỉnh Nam kỳ), nên khi lần giở lại lịch sử đời tu, nhìn ra ngay phạm vi mục vụ của các ngài lúc sinh thời khá lớn. Và cũng chính vì lẽ đó mà nhiều vị hiện không thể tìm thấy thông tin gì nhiều hơn những hàng chữ vắn vỏi ghi trên bia mộ. Cũng dễ hiểu, các cha qua đời đã lâu và có quãng thời gian dài phục vụ khá xa xôi đất Sài Gòn ngày nay, nên đã trôi vào quên lãng trong ký ức những con chiên mình từng dìu dắt, nâng đỡ…
![]() |
Tượng Đức Mẹ Sầu Bi trong nhà mồ nhỏ nằm cạnh mộ các tu huynh dòng Lasan |
Ngược lại, cũng có những cha chỉ đọc tên cũng khiến người ta liên tưởng đến những đề án nghiên cứu, những công trình xây dựng hay sách vở, tác phẩm… cha đã để lại cho Giáo hội, cho hậu thế…, vì khi còn sống, bản thân đã hoạt động sôi nổi trên nhiều lĩnh vực, bên cạnh trọng trách coi sóc, hướng dẫn giáo dân. Chẳng hạn, với người quan tâm nhiều đến các bản dịch Kinh Thánh Cựu - Tân Ước, sẽ thấy quen thuộc vô cùng tên cha Đaminh Trần Đức Huân (1910-1984). Bản dịch của cha Huân là một trong sáu bản dịch Kinh Thánh của các tác giả Công giáo được ghi nhận, do tủ sách Ra Khơi xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn. Đây là bản dịch trọn bộ Kinh Thánh sang Việt ngữ theo bản phổ thông (tiếng Latinh) đầu tiên do một linh mục người Việt thực hiện. Sách dày khoảng 2200 trang, khổ 15cmx21cm; có phần “Dẫn vào Kinh Thánh” chừng 25 trang phía trước, sau đó là bản dịch các sách, với một nhập đề ngắn cho mỗi sách, và những chú thích ở cuối mỗi trang. Bản dịch này được đánh giá là nghe khá xuôi và có ngôn ngữ bình dân; dịch ra thể thơ, không những Diễm Ca và các Thánh Vịnh, mà rất nhiều những bản văn Kinh Thánh có chất thơ, như sách Châm Ngôn, Huấn Đạo (Huấn Ca) và một số các bài ca trong Tân Ước... Công trình là một đóng góp đáng kể và dọn đường cho những dịch giả khác về sau. Ngoài trọn bộ Kinh Thánh xuất bản năm 1970 vừa kể ở trên, linh mục Đaminh Trần Đức Huân trước đó từng dịch và xuất bản sách Tông đồ Công vụ năm 1950, Tân Ước Đức Giêsu Kitô năm 1963... Cuộc đời của cha còn ghi đậm dấu với vai trò là nhà giáo dục, là thầy dạy của nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ… Cha Huân bây giờ nằm ở đây, mất khi 74 tuổi, ngôi mộ của ngài gần như là những phần mộ cuối cùng được an táng trong Đất Thánh, và cũng giản dị như bao mộ phần khác... Đi ngang qua, sẽ rất nhiều người trong chúng ta không biết người nằm bên dưới là một dịch giả Kinh Thánh tầm vóc, từng được Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình viết trong “Lời giới thiệu” ở đầu bộ sách Kinh Thánh đầy đủ do cha dịch: “Đây không phải là bản dịch theo sát chữ (…); cũng không phải là bản dịch phóng tác cốt giữ lấy ý mà không nghĩ đến văn từ. Đây là một bản dịch theo nghĩa chính thống Kinh Thánh (…) và theo lối văn thuộc sinh ngữ Việt Nam”.
|
Bia mộ cha Đaminh Trần Đức Huân |
Chậm rãi bước qua từng hàng mộ trong nghĩa trang, chúng tôi cũng đã dừng lại khá lâu bên nơi an nghỉ của một linh mục có tâm hồn thi ca: cha Giuse Vũ Đức Trinh (1918-1964). Cha Trinh có nhiều tập thơ đã được xuất bản như Ánh Vàng (thơ, 1956), Hương Thiêng (thơ, 1956), Suối Tình Yêu (1964), Đuốc Trời Cao (thơ), Thục Nữ Thiên Hương (thơ), Bảo Tàng Ân Ái (thơ), Những Quả Tim Non (thơ), Mấy Áng Phong Dao (dịch sang Anh văn, NXB Thăng Long, Sài Gòn, 1957...). Chân dung con người văn thơ của cha được tập hợp trong bộ sưu tập CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO do linh mục Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự) chủ biên, ở tập II. Cha cũng là người đi tiên phong trong việc dịch ca dao, tục ngữ, và cả truyện Kiều của Việt Nam sang các ngôn ngữ khác như Anh, Pháp…
Nằm chếch bên trái lối đi, chúng tôi suýt reo lên khi nhận ra mộ của cha Phaolô Đoàn Quang Đạt (1877-1956). Cha được cho là tác giả bài thánh ca Giáng Sinh Việt Nam đầu tiên. Bài hát có tên “Nửa đêm mầng Chúa ra đời”, được xác định của chính cha Phaolô Đoàn Quang Đạt, với bút danh Phaolô Đạt, sáng tác năm 1907. Trong suốt 45 năm linh mục, cha Đạt phục vụ ở nhiều giáo xứ như Đất Đỏ, Tân Định, Tây Ninh, Bố Mua, Bến Sắn, Bà Rịa... Khi còn là thầy, dưới sự hướng dẫn của cha linh hướng, ngài đã dịch các bài ca vịnh Trái Tim và ca vịnh Đức Mẹ từ La ngữ sang Việt ngữ một cách ngắn gọn, sau đó phổ nhạc theo nhịp điệu riêng biệt, làm thành hai quyển Ca vịnh Trái Tim và Ca vịnh Đức Mẹ. Năm 1913, nhà in Tân Định xuất bản cả hai quyển trên với đầy đủ lời và nhạc... Lúc đã là linh mục, cha vẫn đều đặn sáng tác và là tác giả của nhiều bài thánh ca được rất đông người Việt yêu thích.
![]() |
Mộ Đức Giám mục Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm |
Còn nhiều nữa những linh mục nổi tiếng một thời đang hiện diện trong nghĩa trang này, chúng tôi sẽ tiếp tục điểm lại lần lượt để độc giả cùng chiêm ngắm tiền nhân, trong những số báo tới.
(còn nữa...)
Minh Hải
Bình luận